Người đàn ông to lớn hùng hổ
nói với mấy cảnh sát ở một đồn mép chợ Trời: (một cái chợ ở sau phố Huế, từ
giữa phố Đồng Nhân ăn thông ra Nguyễn Công Trứ không biết lập tự bao giờ, buôn
bán đủ thứ thượng vàng, hạ cám).
- Tôi là một đảng viên, một
tổ trưởng tổ rèn của Hợp tác xã, làm sao lại có quan hệ với loại buôn bán tem
phiếu, tôi lại đã có vợ con tại Thủy Nguyên rồi, đời nào tôi dám lấy thêm vợ để
phạm kỷ luật của đảng!
Người đàn bà bé nhỏ đổ sụp
xuống, khóc không thành tiếng, sau lời phủ nhận phũ phàng của người mà chị ta
vẫn thường nhận là “chồng”. Đứa con nhỏ khát sữa đã khàn tiếng vẫn ôm chặt lấy
chị, thỉnh thoảng lại cố nút nút cái núm vú đã beo, lờ đờ nhìn mẹ. Mẹ nó đã hơn
hai ngày hôm nay không có chút gì vào miệng thì lấy đâu còn có sữa để nó bú
nữa.
Người đàn bà này bị bắt quả
tang khi đang mua bán tem phiếu, cái thứ hàng cấm và quý hiếm hơn cả tiền thời
bao cấp.
Câu chuyện này xẩy ra đã hơn
bốn chục năm về trước, khi mà chế độ tem phiếu đang ngự trị cả lương tri và thể
xác con người trong xã hội, khi mà ai ai cũng rất thông cảm với câu “mặt thưỡi
ra như mất sổ gạo”. Trong các loại tem phiếu thì sổ gạo là hàng “đệ nhất quan
trọng”. Mỗi công dân có hộ khẩu thường trú được mua mỗi tháng mười ba cân rưỡi,
nửa gạo nửa ngô, hoặc nửa gạo nửa sắn khô,...được cấp tem phiếu để mua hai lạng
thịt hoặc mỡ, một cân cá đồng tiền (đó là loại cá bể nhỏ như đồng tiền, ươn
tanh đến nỗi cách xa hàng trăm mét đã ngửi thấy mùi), nửa lít nước mắm loại Ba
(hơn nước muối là có màu nâu nhạt), hai cân muối, một cân đậu phụ,...
Nếu không có tem phiếu thì
phải mua các loại thực phẩm trên cao hơn giá quy định của nhà nước từ sáu đến
mười lần. Có phiếu chưa chắc đã mua được hàng, nhưng nếu bán toàn bộ tem phiếu
của một người đi thì cũng có một món tiền kha khá. Ai không có thời gian đứng
xếp hàng vài tiếng để mua mấy mớ rau muống già, bán cái phiếu rau đi cũng được
bát phở, ngược lại có cha mẹ ở quê lên thăm, thì phải mua ngay mấy cái phiếu mỡ
để còn “tuỳ cơ ứng biến”, “các cụ chúng nó” chả đã có câu “củ tre xào mỡ cũng
ngon” đó sao? Lương tháng của cán bộ công nhân viên bậc trung mua được gấp rưỡi
các thứ kể trên, nên nếu mất tem phiếu thì chẳng cứ mặt thưỡi ra, mà còn khối
thứ trên người cũng thưỡi ra nốt. Vì vậy buôn tem phiếu là một nghề tất yếu như
bất cứ nghề gì, có cầu ắt có cung vậy thôi, nhưng lại bị chính quyền coi là
phạm pháp và bị vây bắt rất dữ.
Người ta phải mất công và
thời gian về địa phương để xác minh. Đúng là ở quê anh ta đã có một vợ và có
tới sáu đứa con, nhưng người phụ nữ “phạm tội” này cũng đúng là “vợ” anh ta
thật, bởi ở nơi anh ta cư trú người ta “thấy” hai người vẫn “ăn chung, ở lộn”
hơn mười năm nay và đã có với nhau tới ba mặt con. Mặc cho đứa con nhỏ tội
nghiệp này mới được hơn năm tuổi và giống anh ta như “lột”, anh ta vẫn khăng
khăng không nhận nó là con mình.
Người ta so sánh những lời
khai trái ngược của hai người và khi phải chọn lấy một, phải tin lấy một, tất
nhiên người ta phải chọn anh ta, vì một điều quá dễ hiểu anh ta là đảng viên,
còn chị này chẳng qua chỉ là con mụ “phe” tem phiếu!
Chị ta đã phải nhận thêm một
tội danh nữa ngoài tội buôn bán tem phiếu là tội vu khống hòng bôi nhọ cán bộ
đảng viên. Sau đó chị ta đành ôm con nhỏ ngồi “bóc lịch” trong tù hơn một năm,
về những tội đã phạm phải.
Khi mãn hạn tù, mất “chồng”
đã đành, chị ta lại mất luôn cả chỗ ở, dù đó chỉ là một cái lều rách, chẳng có
gì đáng giá.
Chị ta
đành bế con ra đường. Cả ba đứa trẻ lớn lên trên đường phố và trở thành “những
đứa con của thành phố”. Tất nhiên chẳng có đứa nào lại “dại dột” chịu “sống
theo” như Gavrot trong truyện Những kẻ khốn khổ của Victor Hugo.
Chúng
chai sạn và táo tợn, chẳng việc gì mà chúng không ham muốn, chẳng việc gì mà
chúng không dám làm. Nhưng có thế chúng mới tồn tại được và có như thế chúng
mới đúng “là con của cha” chúng.
Cuộc đời
cứ thế trôi đi, bởi vì đấy mới đích thị là cuộc đời.
Ba mươi
năm sau, người đàn bà buôn tem phiếu đã già và đã giải nghệ vì chẳng còn tem
phiếu đâu để mà buôn bán nữa, nhưng như có phép lạ, bà ta trở nên giàu có, còn
ông thợ rèn thì lại trở thành nghèo khổ.
Mặc cho
bọn con cái vào tù ra tội như cơm bữa, bà ta vẫn dựng vợ gả chồng cho chúng và
mua nhà mặt đường cho cả ba đứa.
Khi ông
thợ rèn đã yếu không còn sống độc lập được nữa, thì bà bảo thằng cả rước bố nó
về nuôi. Ông thợ rèn trở nên rất hiền lành và ngoan ngoãn. Ông ta sống dưới sự
bảo trợ của người đàn bà mà đã lâu khi đứng trước nhà chức trách ông không dám
nhận là vợ, mặc dù ông đã có chung với bà ta tới ba đứa con. Mười mấy năm sau,
lúc ông ta trăm tuổi bà cũng lo toan tang ma đầy đủ, vẫn vấn khăn tang đi sau
linh cữu, nhưng không khóc.
Khi có
người nhắc đến chuyện cũ thì bà nói:
- Ông ấy
cũng chỉ là một người đàn ông tầm thường như bao nhiêu người đàn ông khác, đáng
thương hơn là đáng giận!
Hà Nội, 2006.
Liên hệ: DĐ: 0915140055
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét