Năm đó khoảng 1997 thì phải, tôi vừa ghé
đến mấy cửa hàng gửi bán tranh trên phố Tràng Thi, Hàng Gai,... Thật giật mình
khi biết giá tranh của mình được các cửa hàng “thét lên” đến chín, mười lần giá cha
con tôi ký gửi. Ngày thường tôi chỉ cặm cụi vẽ ở nhà, còn tranh thì con gái tôi
lúc đó chưa lấy chồng, nó giúp tôi đem tranh đi gửi ở các cửa hàng tranh (gallery)
trên phố có nhiều người nước ngoài qua lại.
Tôi cứ trăn trở mãi về sự chênh lệch
giữa giá bán và giá đặt tranh. May mà sau đó có ông bạn thân đến chơi giảng
giải cho mới vỡ lẽ:
- Bao giờ chả vậy. Có thế người ta mới
nuôi sống được cửa hàng. Cái tranh của ông phải gánh hàng lô các loại chi phí
kèm theo như: tiền thuê cửa hàng, tiền thuế má, tiền điện nước, tiền mượn người
làm, tiền bôi trơn cho bộ máy quản lý nhà nước...Cuối cùng lại phải có lãi để
nuôi gia đình, bản thân, rồi còn tích lũy nữa chứ!
- Nhưng sao chênh lệch nhiều đến như
vậy?
- Thế ông chưa nghe câu: “Một vốn bốn
lời” à?
- Hèn chi các cụ bảo: “Phi thương bất
phú” quả là chí lý! Công việc làm của mình chỉ là đổi mồ hôi lấy miếng ăn hàng
ngày thôi!
- Chính xác!
***
Từ Bờ Hồ tôi đạp xe về nhà ở gần chợ Mơ
theo đường Bà Triệu. Đến ngang Đại sứ quán Pháp mà bên hè kia là trụ sở Đoàn
Thanh niên thì thấy trên hè có một dãy tranh và thư họa đang bày bán.
Tôi thấy mấy bức thư họa đẹp mà nhà lại
chưa có bức nào, bèn dừng xe dắt vào xem. Người bán hàng cũng trạc độ tuổi tôi,
thấy có khách thì đon đả:
- Mời
ông vào xem tranh, tôi có mấy bức tranh ngựa, đẹp lắm!?
- Ông
cứ để tôi tự nhiên.
Trong khi thấy tôi cắm cúi xem bức thư
họa viết bài Đường Thi nổi tiếng “Phong Kiều Dạ Bạc” của Trương Kế thì ông ta
cố nài nỉ tôi xem mấy cái tranh ngựa.
Tôi hỏi thành thực:
- Tranh
này ông vẽ, có tham khảo tranh của ai không?
- Em
có đi xem, nhưng không có nhiều tài liệu để tham khảo.
- Tranh
khác thư họa. Nét nào cũng rõ ràng, sắc sảo thì tranh thiếu mềm mại,...
- Tranh
ngựa ở Hà Nội này chỉ có của Trần Khánh. Hôm nọ em có đi xem ở mấy cửa hàng
tranh ở Hàng Khay, nhưng không đủ tiền mua.
- Tôi
là Trần Khánh đây.
- Thật
không?
- Thật!
Tôi đưa chứng minh thư ra cho xem, thì ông tỏ ra hết sức vui mừng.
- Em
xin nhận anh làm anh.
- Ông
tên gì và tuổi thế nào?
- Em
tên Lê Thanh người Thanh Hóa, tuổi Mậu Dần.
- Thế
là ông còn hơn tôi một tuổi, tôi đẻ Kỷ Mão. Thôi ta là bạn, không anh em gì cho
phiền.
- Vâng,
em xin nghe lời anh.
- Đấy
lại anh em rồi. Nếu xưng em, thì phải là tôi chứ không phải ông.
Khi tôi mua bức thư họa bài thơ của
Trương Kế. Ông ta nói:
- Ngày
mai bác qua đây. Đêm nay về, tôi sẽ viết một bức thật ưng cho bác.
- Thế
bức này chưa ưng lắm à?
- Đúng
thế! Chưa thật hoàn hảo.
Chia tay nhau ra về và y hẹn hôm sau tôi
đến vỉa hè nơi ông Thanh bán hàng. Ông đưa cho tôi một bức thư họa mới. Tôi
nhìn kỹ thì thấy bức này, quả có “phiêu” hơn bức trước.
Tôi hỏi:
- Tại
sao bức này lại “bay” hơn bức cũ?
- Trước
khi viết, tôi thường tắm gội vì đã phải “phơi xác” ở vỉa hè cả ngày, quá bụi
bậm, bẩn thỉu. Sau đó ăn chút gì đó, làm một cốc rượu nhỏ. Trong lòng có “phiêu phiêu”
thì viết mới “bay” được. Nhưng để có bức này tôi đã xé đi năm bức viết trước đó,
vì chưa thật ưng lắm.
Rồi ông cuộn bức họa lại, đưa tôi trịnh
trọng nói:
- Bức
này xin tặng bác để kỷ niệm dịp chúng ta quen nhau.
- Bác
đã phải ngồi ở vỉa hè kiếm sống, khổ hơn tôi rồi, sao phải tặng?
- Không,
đã nói tặng là tặng!
- Thôi
không nói chuyện này nữa. Bác có viết được chữ Nôm không?
- Tôi
ở viện Hán Nôm hơn ba chục năm, làm đến chuyên viên sáu, làm sao không viết
được chữ Nôm?
- Thế
bác viết giúp tôi bài thơ Nôm Cảm Hoài của Nguyễn Trãi mai tôi đến lấy.
-
Cụ
Nguyễn Trãi viết nhiều lắm. Tôi không nhớ hết, bác ghi vào quyển sổ này cho tôi
để tôi viết.
Hôm sau tôi đến lấy bức thư họa Cảm Hoài
của Nguyễn Trãi chỉ gồm có bốn câu:
Nỗi
lòng một sự yêm chưng một,
Đèn
khách mười thu lạnh hết mười.
Phượng
vẫn tiếc cao, diều hãy lượn,
Hoa
thì hay héo cỏ thường tươi.
Thì không ngờ ông Thanh lại ghi cả tên
tôi vào mép bức thư họa đó.
Tôi nói:
- Một
bài thơ của danh nhân, mà sao ông lại viết cả tên tôi vào thế!
- Bác
nhớ được bài thơ này, nên cũng đáng ghi vào đấy lắm chứ, như người viết thư họa,
cũng viết tên mình vào cạnh bức thư họa đấy thôi.
Liền sau đó có bốn năm ông già đến xem
và mỗi ông đặt mua một bức thư họa của cụ Trãi.
Ngay lúc đó có một chiếc mô-tô ba bánh chở mấy
anh Công an phóng ào đến, nhảy xổ vào, xẵng giọng hỏi ông Thanh:
- Ai
cho phép ông bày bán mấy thứ linh tinh này ở vỉa hè?
- Tôi
nghĩ vỉa hè rộng nên bày bán mấy bức tranh, thêm tiền nuôi con ăn học!
-
Học
hành gì? Ông theo chúng tôi lên đồn để nộp phạt vì đã vi phạm trật tự giao
thông đường phố!
- Các
anh thông cảm. Vỉa hè rộng hơn mười mét, tôi ngồi nép ở phía trong, treo mấy
cái tranh lên bờ rào của tường, không vướng bận gì đến người qua lại, chứ có
làm gì vi phạm đến trật tự giao thông đâu ạ?
- Không
nói nhiều, mời ông lên đồn giải quyết! Miệng ra lệnh còn tay thì vơ các bức
tranh và thư họa rồi nhét bừa vào thùng của chiếc xe mô-tô ba bánh.
Những người có mặt tại đó rất bất bình.
Tôi không nhịn được nói lớn:
- Các
anh thật vô văn hóa. Tranh và thư họa mà các anh coi như rác, vơ ộn thành một
mớ rồi nhét bừa vào thùng xe thì nó nhăn nhúm hết, sau đó chỉ có vứt vào sọt
rác chứ còn dùng lại làm sao được?
-
Ông
này, ông bảo ai là vô văn hóa?
-
Tôi
nói thế đấy, đây là các sản phẩm văn hóa mà các anh coi như rác rưởi! Việc làm
của các anh thật là vô văn hóa!
-
Ông
nữa, ông phải theo chúng tôi lên đồn.
-
Tại
sao tôi lại phải lên đồn?
-
Ông
lăng mạ và cản trở người đang thi hành công vụ!
- Còn
các anh thì coi thường và lăng mạ nhân dân. Phá hoại thành quả lao động của dân.
Các anh không nhớ câu mà Lãnh tụ của các anh dạy là đối với dân phải tôn trọng,
lễ phép? Ông ta còn nói thêm rằng: nhân dân làm chủ, còn các anh chỉ là công
bộc. Các anh có biết công bộc là gì không? Công bộc là đày tớ. Có đời thửa nào
đày tớ đối với ông chủ lại mất dạy như các anh không? Hay là các anh không được
đi học và cũng không coi lời dạy của Lãnh tụ các anh ra gi!
Lúc bấy giờ mọi người quanh đấy ồn ồn
lên phản đối, lại còn giằng co với mấy tay Công an nữa.
Tôi thấy cảnh tượng chẳng ra sao, bèn
đến bảo bọn họ:
- Các
anh không sợ Sứ Quán bên kia đường họ quay cảnh các anh đang áp chế dân. Bóc
trần cái “màn Dân chủ giả hiệu” rồi tung lên mạng cho cả Thế giới người ta “chiêm
ngưỡng” à?
Bọn chúng nhìn sang phía
Sứ quán Pháp có mấy cái cửa số đang mở rộng, thấy quả là bất lợi nên bảo nhau bỏ ra
về và ông Thanh cũng không bị bắt lên đồn nữa. thấy quả là bất lợi nên bảo
nhau bỏ ra về và ông Thanh cũng không bị bắt lên đồn nữa.
Tôi an ủi ông:
- Khổ
cho bác, tự nhiên lại mất của!
- Không
sao đâu! Coi như bị bọn ăn cắp móc mất ví thôi mà. Đã ngồi kiếm sống ở vỉa hè,
thì phải chấp nhận “tủi buồn” thôi!
Đến giờ tôi vẫn treo trang trọng hai bức
thư họa của ông Thanh viết ở phòng khách. Ông là người viết Thư họa đẹp thứ nhì chỉ sau cụ Lê Xuân Hòa ở Hà Nội lúc bấy giờ.
Nhiều người xin chụp lại để in ra chơi
vì chỉ ít lâu sau đó ông Thanh không may bị một cơn tai biến, liệt nửa người
không còn đem tài năng và sở nguyện để cống hiến cho đời được nữa.
Tôi có đến thăm ông một, vài lần tại một
ngõ nhỏ trên đường Quần Ngựa.
Người đàn ông tài hoa biết thông thạo
bốn ngoại ngữ, về hưu còn cố ra đường bán chữ để nuôi bốn người con học đại
học.
Hà Nội, 2016.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét