Cách đây gần
bốn mươi năm, khoảng năm một nghìn chín trăm tám mốt, tám hai gì đó, lúc ấy mẹ tôi
đã trên tám mươi tuổi bị liệt nửa người, nằm điều trị ở bệnh viện Đông y Nguyễn
Bỉnh Khiêm hơn sáu tháng không khỏi.
Bố tôi đã phải
gọi vợ chồng tôi đang ở Cầu Giấy lên:
- Bố biết vợ
chồng chúng mày cũng đã vất vả lắm rồi, nhưng mẹ các con giờ nằm một chỗ, một
mình bố không thể nâng giấc được. Các con xem thu xếp lên đây để chăm mẹ giúp
bố.
Nghe thế chúng
tôi xót xa đến đứt ruột. Đã trên tám mươi tuổi rồi, không ngờ bố mẹ còn vất vả thế
này.
Ngay tuần sau
chúng tôi bồng bế nhau lên Lắp Ghép Trương Định để chăm mẹ.
Với căn nhà
mười ba mét vuông, tiêu chuẩn phân phối chỗ ở cho một gia đình Việt Nam lúc bấy
giờ. Chúng tôi loay hoay mãi vẫn không thể nào “nhồi nhét” được sáu người vào một
căn buồng chỉ nhỏ như cái chuồng chim ấy, (khu nhà Lắp ghép kiểu này, dân Hà
Nội gọi là “khu nhà chuồng chim”).
Cứ “chui” được
đầu vào thì chân lại “tòi” ra ngoài, sau nhờ có ông Vụ phó gì đó tên Bình mua
nhà cho vợ bé nhưng chưa dùng, cho “ngủ nhờ”, nên mới tạm ổn một chút.
Ít lâu sau đó
ông Cung bạn tôi lên Hà Nội có việc, đến nhà thấy vậy hỏi:
- Đã tìm đến
thằng Dư chưa?
- Dư nào?
- Dư đang làm ở
Sở Giao thông Hà Nội ấy.
- Nó làm giao
thông thì tìm nó làm gì?
- Nó có nghề bấm
huyệt chữa được khối bệnh đấy!
Tôi tìm đến chỗ
Dư thì mới hay Dư biết bấm huyệt thật.
Dư đến bấm
huyệt cho mẹ tôi chỉ hơn mười ngày là mẹ tôi lại đi lại được bình thường. Nhưng
lạ hơn là có một thằng bé ở nhà đầu dãy đã bị bại liệt mấy năm, một bên mông đã teo hẳn,
“đi vạt tép”, tôi mách tìm đến với Dư, anh ta chỉ bấm có bảy ngày mà thằng
bé khỏi hẳn. Nói thực trước đó tôi không tin vào chuyện chữa bệnh bằng Đông Y
và nhất là cái trò châm cứu, bấm huyệt. Nhưng từ sau lúc mẹ tôi khỏi, tôi đã
thay đổi hẳn cách nhìn nhận đó. Tôi tìm đọc các sách hướng dẫn châm cứu, bấm
huyệt của các danh y như Nguyễn Tài Thu và một số sách dạy chữa bệnh bằng châm
cứu của Quân Đội. Nên một số bệnh thông thường như đau đầu, nhức mỏi chân tay,
tôi có thể bấm huyệt chữa cho người trong nhà.
***
Cách đây hơn
hai chục năm khoảng 1996, chị ba tôi phải vào bệnh
viện nằm chữa bệnh. Tôi vào thăm thì thấy cạnh giường chị nằm có một cậu thanh
niên chừng dưới ba mươi tuổi mới bị bại liệt, đã chữa trị nhiều ngày mà không
thuyên giảm. Tôi hỏi chuyện mới biết Đông Y Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã trả về,
giống như trường hợp của mẹ tôi trước đây.
Tôi nhớ đến Dư
và liền ngay sau đó tôi cùng cậu em vợ đi tìm. Phải hơn nửa tháng trời mới tìm
được đúng nhà Dư ở khu P Thành Công.
Chúng tôi vẫn
nhận ra nhau, sau gần ba mươi năm không gặp lại, nhưng có cảm giác như nhầm
người. Đúng vẫn là con người này, mà giờ đây nó cứ khang khác thế nào ấy!
Tôi và cậu em
vợ thì mừng ra mặt, còn Dư thì không ra mừng, cũng không ra không, nó cứ nhàn
nhạt như người lạ mới gặp nhau lần đầu vậy.
Quan sát mới
hiểu ra rằng anh ta bây giờ đã là một người khác hẳn, từ quần áo, đến bộ bàn
ghế, cái xe ô-tô con đắt tiền mới mua để trước cửa.
Tôi vồ vập hỏi:
- Tôi có nghe nói
anh được đề bạt lên lãnh đạo, đi nước ngoài thường xuyên, vừa được phân nhà ở
số đặc biệt trên Trần Hưng Đạo, sao giờ lại chuyển về đây?
- À, tôi được
phân một phòng trên trăm mét vuông trên tầng hai ở 104 Trần Hưng
Đạo, nhưng sau do căn nhà này có kiện cáo, tranh chấp gì đó. Tôi lại chuyển về
đây. Vừa rộng hơn, thoáng mát hơn, lại ở tầng một có ga-ra để ô-tô.
- Ồ, thật là kỳ
diệu!
- Anh bảo sao?
- Tôi đang ca
ngợi anh. Bây giờ anh thật là kỳ diệu!
- À, tất nhiên
thôi!
Ngồi một lúc
lâu, tôi uốn lưỡi mãi mới nói được thành lời:
- Hôm nay đến
đây, trước là để thăm anh, sau có một việc nhỏ xin trình bày, mong anh giúp đỡ.
- Anh cứ nói.
- Cách đây mấy
chục năm, anh đã cứu mẹ tôi khỏi bại liệt, cái ơn ấy tôi không bao giờ dám
quên. Hôm vừa rồi, tôi gặp một cháu thanh niên bị bại liệt trong bệnh viện Bạch
Mai. Nó chỉ là người hàng xứ. Nhưng tôi biết nếu không được chữa chạy kịp thời,
để lâu sẽ thành tàn phế. Nó là thợ điện mới trên ba mươi tuổi, vừa lấy vợ và
mới có đứa con ba tuổi. Nếu tàn tật cả đời thì biết lấy gì nuôi vợ con! Thật
tội nghiệp, mong anh giúp đỡ.
- Rất tiếc, Dư
ngừng lại một lúc lâu rồi mới nói tiếp:
- Tôi không thể
giúp được. Ba, bốn ngày nữa tôi phải đi Thụy Sĩ để Hội thảo về Giao thông của
Hà Nội những năm Hai nghìn hai mươi.
- Bây giờ mới là
năm một nghìn chín trăm chín nhăm, sao đã thảo luận những vấn đề xa xôi cách
ba, bốn chục năm như thế?
- À, những người
bình thường thì làm sao có tầm nhìn để hiểu được vấn đề như thế!
Một lúc sau,
khi đã uống hết chén nước thật ngon, thật thơm, tôi rụt rè nói:
- Anh ạ, nếu quả
thật anh bận, thì xin anh truyền cho tôi mấy cái huyệt mà ngày xưa anh đã cứu
mẹ tôi khỏi liệt. Tôi cóp nhặt cả đời chỉ có được một nghìn Đô-la Mỹ, xin biếu
anh để được anh dạy cho. Tôi thấy cháu thanh niên bị liệt thì động lòng trắc ẩn,
chứ không có ý định hành nghề bấm huyệt.
- Bây giờ bận
trăm công, nghìn việc, lại toàn việc quan trọng của Chính phủ giao phó thì tôi làm
sao còn nhớ được mấy cái huyệt vớ vẩn ấy nữa!
Biết có ngồi
thêm cũng chẳng được việc gì nữa, hai anh em tôi kính cẩn chào ông bạn nghèo khổ
ngày xưa và là người quen mới giàu sang bây giờ, ra về mà lòng buồn rười rượi.
Đi một quãng xa
cậu em vợ mới dám gợi chuyện:
- Lúc bà bị liệt,
thì anh Dư chắc cũng nghèo như anh em mình bây giờ, anh nhỉ?
- Anh quen anh ấy
qua anh Cung. Lúc ấy anh Dư làm ở Sở Giao thông Hà Nội cạnh Vân Hồ, hai cha con họ phải trú tạm trên một cái chiếu nghỉ
cầu thang trong nhà vệ sinh của cơ quan. Ngoài giờ họ phải quấn thuốc lá điếu để kiếm thêm tiền cho sinh hoạt.
- Thế sao anh ấy
đột nhiên được đề bạt lên làm quan chức cao cấp và giàu có khủng khiếp đến thế?
- Không có cái gì
đột nhiên cả, nghe kể chuyện này thì cậu hiểu ra ngay.
Sau khi mẹ anh
khỏi bệnh, anh có sang Bắc Ninh để thăm và cám ơn gia đình anh ấy.
Khi nói chuyện mới biết bố anh Dư với bố anh cùng tuổi, tuổi Giáp Thìn(1).
- “Ông cụ bảo:
- “Tuổi tôi với
tuổi bố anh, không có con trai!”
- “Thế cháu với
anh Dư, không là con trai, thì là con gái à?”
- “Nếu là con
trai, thì phải tàn tật mới sống được. Xã này có hơn mười ông cũng Giáp Thìn đều
thế cả, con trai không mù thì câm!”
- “Cháu què thì
rõ rồi, nhưng anh Dư có sao đâu?”
- “Anh chỉ què
một tay, nhưng thằng Dư què cả hai tay!”
Lúc ấy Dư giơ
tay lên thì quả thật cả hai tay đều bị gãy. Cái vòng lên, cái vòng xuống, do
hai lần cưỡi trâu ngã.
Trong khi
chuyện trò tôi biết, nghề bấm huyêt là do ông nội Dư truyền lại. Bố Dư chỉ làm
ruộng. Khi Dư lớn, nhờ người dịch sách của ông để lại mới biết nghề. Ngoài bại
liệt thì còn hai bệnh nữa là rò xương và thuật tránh thai Dư cũng chữa rất
giỏi. Nhưng cái chính vẫn là bại liệt.
Ông bố Dư có
hai vợ. Bà cả không có con. Dư và các anh em đều là con bà hai.
Đến khi thành
phố quyết định lấy tên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương(2) Nguyễn Văn Cừ(3)
để đặt tên một con đường trong Thị trấn Gia Lâm. Người ta về Bắc Ninh để tìm họ
hàng còn lại của ông thì mới biết bà vợ cả của bố Dư lại là bà chị ruột Tổng Bí
thư Cừ.
Lập tức tổ chức
cuống cuồng bổ lên Hà Nội đi tìm “hậu duệ”(4) của ông. Tất nhiên mọi người từ thôn, xã
đến thành phố cũng rất dễ dàng chấp nhận Dư là cháu ruột của Tổng Bí thư Cừ.
Còn Dư cũng không bỏ lỡ dịp may hiếm có ấy.
Những việc tiếp
theo thì các vị trong ban tổ chức cứ thế mà làm “theo đúng trình tự của quy
trình”. Đầu tiên là việc kết nạp Dư vào Đảng (bởi vì chẳng ai có thể chấp nhận
được rằng cháu ruột của Tổng Bí thư lại không phải là đảng viên!) - Kế đó là đề
bạt Dư lên Phó phòng, tháng sau là Trưởng phòng. Tháng sau nữa lên Phó Giám đốc
Sở, nhưng nghe đâu Dư không quen điều hành công việc nên người ta lại phải lờ
đi vậy.
Phân nhà ở cho
những người quan trọng như thế chỉ còn là chuyện nhỏ và cũng là việc làm “theo
đúng trình tự trong quy trình”.
Liên tiếp sau
đó là những chuyến đi tham quan, đi du lịch hay hội thảo và tất cả những lần đi
nước ngoài không cần đến kiến thức, không cần có nghiệp vụ thì Dư đều có mặt đầy đủ.
Mà mỗi lần đi
nước ngoài, chỉ cần đem về một vài thứ có giá trị thì nhà không giàu lên nhanh
mới là lạ! Hiện giờ Dư đã đưa cả vợ và mấy đứa con từ Bắc Ninh lên định cư tại
Hà Nội. Các con đều được học ở trường chuyên, lớp chọn.
Đồ đạc, tiện
nghi trong nhà đều được các trợ lý xem xét và chọn lựa rất kỹ càng.
***
Rời nhà Dư ra
về, hai anh em tôi lại bàn nhau tìm đến Trương Gia Hải là bạn học chí thân, đã
từng cắp tráp theo Dư đi chữa bệnh gần năm, sáu năm trời, chắc chắn là phải nắm
được chút ít nghề này chứ. Nhưng khi gặp Hải, chúng tôi mới “vỡ lẽ ra rằng” Hải
không học được một tí gì. Khi phụ giúp cho Dư làm các việc linh tinh thì được,
nhưng khi bấm huyệt thì “ông bạn vàng quý hóa” thường sai khéo Hải làm cái gì
đấy hoặc đi ra chỗ khác!
Tôi đành than
thở với cậu em vợ:
- Coi như thằng
cháu không quen biết bị bại liệt trong bệnh viện không gặp may rồi!
***
Hôm rồi cũng là
tình cờ tôi và Dư lại gặp lại nhau. Dư vẫn sang trọng, béo tốt nhưng đã yếu lắm
rồi, phải ngồi xe lăn.
Vẫn nhận ra
nhau, nhưng Dư đã chậm chạp mồm cứ phải uốn éo mãi, lắp bắp mãi mới nói được,
phải cái tội lại cứ thích nói nhiều.
Đúng là các cụ dạy cấm có sai: “ Điếc
hay ngóng, ngọng hay nói!”
Dù còn thính
tai mà mãi một lúc lắng nghe tôi mới hiểu được là Dư vẫn có ý định đi Pháp hoặc
Ý vài lần nữa để làm nốt những việc mà Thủ tướng Chính phủ vừa giao phó!
Ra về tôi than
thở với cậu em vợ:
- Ông trời không
cho ai mọi thứ, cũng không lấy của ai tất cả!
- Câu ấy xưa lắm
rồi! Đến trẻ con cũng thuộc lòng anh ạ.
Hà Nội, 2017.
(1) Tuổi Giáp Thìn: sinh vào
năm 1904.
(2) Vào những năm 1938 –
1940.
(3) Nguyễn Văn Cừ người Bắc
Ninh 1912 – 1941
(4) Hậu duệ: Con cháu cùng
dòng dõi của người đã chết