tháng 10 10, 2022

Lay-ơn vàng


 

Tháp Hòa Phong cạnh Hồ Gươm Hà Nội


 

Đi tìm mộ anh trên đất Điện Biên

Tin anh cả tôi Trần Hạnh Phúc, thuộc Trung đoàn 36, Đại đoàn 308  hy sinh trên Điện Biên Phủ đầu năm 1954, bố tôi đã biết ngay sau đó ít lâu, vì ông cụ cũng là Việt Minh kỳ cựu.

Cụ cũng hiểu rằng lúc chiến sĩ ta hy sinh trên trận tuyến nhất lại là trên đất bạn Lào vào đầu những năm 1954 được đồng đội chôn cất khi trận đánh còn đang diễn ra ác liệt, thì rất sơ sài, thậm chí người vừa chôn đồng đội mình chỉ vài phút sau đã lại ngã xuống theo.

Lúc đó đầu năm 1954, Hải phòng chưa giải phóng, bố tôi cũng chỉ vừa được Pháp tạm tha khỏi nhà tù, hàng tuần còn phải lên Sở Mật thám trình diện, Tây vẫn còn đi lại lố nhố đầy đường, nên ông cụ giấu hẳn việc anh tôi hy sinh, không cho ai trong nhà biết.

Mẹ tôi biết khóc lóc ầm lên thì không ai lường được hậu quả sau đó sẽ ra sao!

Ông cụ đã phải cắn răng chịu nỗi đau ấy một mình, mãi sau này tôi lớn bố tôi mới kể lại cho nghe và nói:

- Anh con hy sinh trên đất Lào đầu năm 1954, bố không có điều kiện sang đó được. Sau này nếu có dịp, con cố sang thắp cho anh con nén hương.

***

Biết năm 1982 các hài cốt liệt sĩ Việt Nam hy sinh bên đất Lào đã được nhà nước quy tập về nghĩa trang Tông Khao Điện Biên (thuộc bản Tông Khao, xã Thanh Nưa, huyện Điện Biên).

Năm 2004, cô con dâu tôi làm ở Đài Truyền hình Trung ương có lên công tác Điện Biên, đã mang toàn bộ giấy tờ, tài liệu để liên hệ với Sở Thương binh Xã hội Điện Biên tìm kiếm nhưng vẫn không xác định được mộ Liệt sĩ Trần Hạnh Phúc.

Đầu năm nay, tôi bước sang tuổi 83, sức đã xuống nhiều. Đúng dịp anh con trai đang rỗi việc nên cả nhà cùng nhau tổ chức lên Điện Biên lần nữa để tìm mộ anh tôi.

Anh hy sinh trong trận mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, khi tiểu đội do anh chỉ huy truy kích tàn quân của Pháp chạy sang Lào.

Anh hy sinh ngày 20/01/1954 (16/Chạp/ Quý Tỵ), tại bản Hát Kham, Nậm U, U-đôm Xay Thượng Lào, khi vừa bước sang tuổi 22.

***

Khoảng 5 giờ 30 sáng thứ sáu 23/09/2022, cả gia đình tôi, gồm bốn người: hai vợ chồng già, anh con trai 52 và cô con gái 49 tuổi cùng lên Điện Biên Phủ. Chúng tôi xuất phát từ Đình làng Hoàng Mai Hà Nội trên một chiếc xe bảy chỗ đi mượn. Thẳng qua Hòa Bình đến Sơn La, cuối cùng là Điện Biên Phủ cách nhà hơn 500 ki-lô-met.

Trên đường đi nhờ ơn Đảng, ơn chính phủ chỉ bị bắn tốc độ có một lần, mặc dù đã nêu mọi lý do và đủ các thứ giấy tờ ra để trình bày, kể cả cái giấy giới thiệu của phường, mà cha con tôi đã tốn công đi lại tận 5 lần mới xin được (lần thứ nhất họ yêu cầu đảo tiêu đề Sở lên trên tiêu đề Phường, lần hai: bố anh (tức là tôi) còn sống thì dù cao tuổi, bố anh phải đứng tên xin giấy, lần thứ ba: phông chữ trong đơn là Arial không phù hợp với quy định, mà phải đổi sang phông chữ Times New Roman, lần thứ tư: lề đơn không phù hợp với quy định lề của văn bản nhà nước là: 3-2-2(!), lần thứ năm: CCCD và sổ hộ khẩu phải qua công chứng...Mỗi lần thay đổi như thế với lời dặn dò của cán bộ Uỷ Ban, phải đánh máy rồi đi lại mất hai ngày). Tuy nhiên lỗi chạy xe quá tốc độ (15 km) vẫn không được bỏ qua, thế là phải qua ngân hàng nộp phạt năm triệu đồng(!) và giữ bằng lái xe 2 tháng.

Đi một lèo 500 ki-lô-mét, từ Hà Nội lên Điện Biên, tôi tưởng không trụ được, may nhờ thần linh phù hộ và nhờ có Đảng dẵn đường, nên chỉ bị mệt rũ ra thôi!

Tối ấy nghỉ lại Điện Biên, hôm sau chúng tôi đến nghĩa trang Tông Khao cách Điện Biên 5 ki-lô-met, cứ nghĩ là thứ bảy mọi nơi đều nghỉ, không ngờ được ông quản trang Trần Ngọc Sơn khoảng năm mươi tuổi vẫn rất nhiệt tình đón tiếp.

Ông Sơn đã giở tất cả các tài liệu ra rà đi, soát lại, nhưng vẫn không tìm thấy vị trí mộ của Liệt sỹ Trần Hạnh Phúc.

Ngồi một lúc ông Sơn nói chầm chậm:

- “Trong số hơn 2500 liệt sĩ hy sinh năm 1954 bên Lào được di dời về nghĩa trang Liệt sĩ Tông Khao năm 1982, thì chỉ có 1000 ngôi là xác định được danh tính, còn lại là mộ liệt sĩ không rõ tên, thậm chí có ngôi còn không có cả hài cốt”.

Tôi thấy ông Sơn tỏ vẻ không được vui vì không tìm được mộ liệt sĩ cho gia đình tôi.

Tôi đã phải nói với ông:

- “Ông đã rất nhiệt tình giúp đỡ gia đình tôi tìm kiếm mộ của liệt sĩ Trần Hạnh Phúc. Tuy chưa xác định được mộ của liệt sĩ Phúc cụ thể ở đâu, nhưng gia đình tôi cũng rất biết ơn ông”.

Hôm sau chúng tôi trở về Hà Nội. Tôi là người suốt bốn mươi năm làm nghề cầu đường, mà giờ được đi trên con đường từ Hà Nội đến Điện Biên Phủ, vẫn không khỏi thán phục và mê đắm con đường đẹp đẽ và cực kỳ thông thoáng, thuận tiện dài trên năm trăm ki-lô-met đã qua.

***

Nghe tin gia đình tôi từ Điện Biên Phủ trở về, ông hàng xóm thân, một ông giáo già dạy sử năm nay cũng gần 90 tuổi sang chơi và thăm hỏi.

Vừa gặp ông đã vồn vã:

- Ông có khỏe không, chuyến đi thế nào?

Tôi nắm tay ông, thều thào:

- Cám ơn ông sang chơi! Tôi tưởng không  trụ được! Cả đi về hơn một nghìn cây số đường đèo dốc còn gì?

- Ừ, dễ phải đến một nghìn cây số thật!

- Thế công việc tìm kiếm mộ liệt sĩ thế nào? Ông hỏi thêm.

- Biết nói thế nào nhỉ! Nói là hoàn thành rồi cũng đúng , mà nói là chưa hoàn thành cũng chẳng sai!

- Thế là thế nào?

- Đúng như tôi đã dự tính trước khi đi. Sau chiến dịch Điện Biên Phủ gần 30 năm (từ 1954 đến 1982), nhà nước ta mới có điều kiện chiêu tập di dời mộ liệt sĩ từ Thượng Lào về Việt Nam, thì làm sao mà nguyên vẹn và chính xác được.

- Tức là không tìm thấy?

- Chưa xác định được, chứ không phải là không tìm thấy!

- Thế là thế nào?

- Như ông quản trang cho biết đấy: “Trong số hơn 2500 liệt sĩ hy sinh năm 1954 bên Lào được di dời về nghĩa trang Liệt sĩ Tông Khao năm 1982, thì chỉ có 1000 ngôi là xác định được danh tính, còn lại là những mộ liệt sĩ không rõ tên, thậm chí có ngôi còn không có cả hài cốt”.

- Tức là..?

- Tức là khi thống kê các tiểu đội, trung đội, trung đoàn, đại đoàn,... con số liệt sĩ là thế, nhưng trong hàng mấy nghìn ngôi mộ ấy không thể biết rõ được danh tính của từng ngôi, vì thế mộ lập ra thì lập đủ số cho liệt sĩ, nhưng không thể biết mộ ấy là của ai!

Ông giáo nói như an ủi tôi:

-          Cũng phải thôi!

-          Phải là phải thế nào?

-   Phải chấp nhận thực tế thôi! Một đất nước có chiến tranh liên miên trên ba mươi năm, hết đánh Pháp, lại đến đánh Mỹ, thì sẽ có nhiều người chết mà không biết vì sao mà mình chết, chết bất kỳ ở đâu, bất kỳ chỗ nào, ai đã giết mình!

Riêng ông anh ông đã được nhà nước công nhận là liệt sĩ, còn có giấy báo tử, được Tổ Quốc Ghi Công, được ghi tên trên bia tưởng niệm liệt sĩ của quận nơi ông cư trú, giờ lại còn được biết đích xác nghĩa trang an táng, để ông và gia đình tìm lên thắp hương. Vậy là đã may mắn hơn bao nhiêu người, may mắn hơn bao nhiêu gia đình khác rồi còn gì?!

- Nghĩ như thế cũng là để an ủi cho mình nhiều rồi, phải không ông?

- Đúng thế, mà muốn khác đi cũng chẳng làm sao khác được!

Rồi ông giáo nói:

- Sau chuyến đi này, gia đình ông không còn phải áy náy điều gì nữa. Đối với ông anh liệt sĩ của ông cũng đã tận tình, tận nghĩa rồi.

Mà nhà nước lo cho các liệt sĩ như thế, là cũng đã làm hết sức chu đáo rồi, không thể làm hơn được nữa.

Nhìn ảnh nghĩa trang ông chụp lại thì thật là đẹp đẽ, thật là mát mẻ, thoáng đãng, ta thấy được nhà nước đã chăm sóc cho các liệt sĩ chu đáo thế nào!

Thôi ông nghỉ ngơi cho lại sức, mà này ông hay đi đây, đi đó tham quan, lại hay chụp ảnh kỷ niệm mà lần này lên tận Điện Biên lại không đi đâu hay sao?

- Có, có chứ. Nhân dịp này lên Điện Biên, tôi cùng gia đình có tìm đến thăm hầm chỉ huy của tướng De Castre de Tassigne trên cánh đồng Mường Thanh, đến Đồi Him Lam, Đồi A1, Đồi Độc lập,...

- Thế chắc ông chụp được nhiều ảnh lắm, nếu được cho tôi xem ké với!

- Đây, mời ông xem.

- Sao lại chỉ có ảnh của hầm De Castre, mà sao lại chỉ chụp cận cảnh, không thấy cảnh cánh đồng Mường Thanh đâu cả, thế còn Him Lam, Đồi A1,...sao không chụp?

- Thời thế đã thay đổi rồi, mọi cái đều được đem lên bàn cân để cân đo, đong đếm!

Tôi chắc cánh đồng Mường Thanh xưa phải thoáng đãng lắm, rộng rãi lắm mới được Bộ tham mưu tối cao quân đội Pháp chọn xây hầm chỉ huy, thế mà nay cái địa điểm lịch sử rất đáng lưu giữ và trân trọng ấy đã bị quây lại như một cái cũi chó nhỏ, hàng rào bảo vệ sát ngay chân hầm. Tạo cho người đến tham quan một cảm giác cực kỳ tù túng và bức bối (khách ra vào vẫn phải nộp 20 nghìn đồng phí vào cửa để tham quan), chung quanh cái cũi nhỏ đó là đủ các quầy bán mật ong, quần áo, túi thổ cẩm,...mà các cô gái bán hàng cũng có lẽ là Thái, Thổ rởm, môi son má phấn nhoe nhoét, mời chào rất phản cảm,...

Vì thế không còn cánh đồng Mường Thanh, không còn chỗ lùi xa ra mà chụp ảnh nữa!

Tuy nhiên ở đây vẫn còn khá hơn các địa điểm Đồi A1, Đồi Him Lam,... Ở các nơi này còn không có chỗ len chân, hàng quán, phố xá, chật khít.

- Ai cũng cần ăn, ai cũng phải sống mà ông! Ông giáo giảng hòa.

- Điện Biên Phủ đất rộng mênh mông là thế, rộng gần mười nghìn ki-lô-met vuông (9.541 km²), dân thì thưa thớt chỉ có gần sáu trăm nghìn người (598.856 người) (con số 2019), như vậy trên 1 ki-lô-met vuông đất chỉ có sấp sỉ 63 người mà sao phải đập dập, bóp bẹp, lấn át, chen chúc đến mức bỏ qua cả những mảnh đất thiêng liêng vì miếng cơm, manh áo đến thế?

Ngồi một lúc ông giáo già buồn buồn nói thêm:

- Gần đây có một số người đề xuất trong giáo dục môn lịch sử chỉ là môn tự chọn, không bắt buộc phải học. Thế là đã nổi lên ý kiến phản đối rầm rầm như sấm, nói là học sinh phải bắt buộc học môn lịch sử. Họ dẫn câu nói của ông Hồ là “dân ta phải biết sử ta”. Làm như họ tôn trọng lịch sử lắm!

Tôi cả đời hơn bốn mươi năm dạy lịch sử, tôi yêu mến và quý trọng nó, nhưng xem ra người ta chỉ yêu thích, quí trọng lịch sử chỉ từ cuống họng trở ra.

Qua thực tế và nghe thêm câu chuyện ông kể khi lên Điên Biên, thì họ có tôn trọng, có yêu quý lịch sử đâu?

Đấy chỉ mới trải qua mấy chục năm mà những “hồn thiêng sông núi” đáng trân trọng như cánh đồng Mường Thanh, Đồi Him Lam, Đồi A1,... đã bị xóa nhòa, nhem nhuốc, đã bị “xuống cấp” thê thảm đến như vậy!

Ngay cái nơi mà mọi người cứ thường ca tụng:

“Lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu”... mới có mấy chục năm mà còn “sập sệ” đến như thế thì thử hỏi ít trăm năm sau có địa điểm lịch sử nào có còn tồn tại nữa không?

Ngừng một lúc, tôi hỏi ông hàng xóm:

- Ông còn nhớ câu danh ngôn mà ông hay dẫn ra với tôi...

Ông giáo già dạy lịch sử trả lời:

- Có phải câu: - “Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục, thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác. - Si tu tires au passé par le pistolet, le futur te tiera par le canon” mà nhà thơ Abutalip (của Đaghextan) đã nói không?

-          Đúng, đúng, tôi ấp úng công nhận.

 

                                                                                                   Hà Nội, 2022.

   

 


Hoàng hôn


 

Hồng tím


 

Người không tim

Bọn em sống với nhau chẳng theo một quy luật hay một quy tắc nào cả.

Đó chỉ là sự cộng sinh của thiên nhiên hoang dã.

Con đực cần con cái, tự ghép vào nhau, tự quấn lấy nhau để tồn tại, không lãng mạn, không khoa trương, không hôn hít, không cả một lời âu yếm. Cứ nhìn thấy nhau là thèm khát, nhìn thấy nhau là muốn hiến dâng, muốn chiếm hữu.

Thế thôi!

Lão ta không cao to, nhưng được cái đằm người, khỏe như trâu, chẳng bệnh tật gì và đặc biệt là chẳng biết sợ một cái gì, thẳng thắn đến thô bạo.

Có lần ngồi rỗi, đùa, em hỏi vì sao lão ta lại không biết sợ thì lão ấy trả lời rấm rẳn:

- Tao không có tim, nên không biết sợ!

- Nói như cứt ấy, không tim thì sống thế đếch nào được!?

- Thiên hạ thiếu gì những đứa không tim mà vẫn sống nhăn ra đấy thôi! Mà lại còn sống đàng hoàng, sung sướng hơn bao nhiêu người có tim ấy chứ!

- Thế không có tim, lấy cái gì để bơm máu?

- Chỉ để bơm máu thì dùng cái gì mà chả bơm được, đồ ngu?

- Dùng lỗ đít à? Em chọc tức lão ta.

- Sao ngu thế! Dùng cái lỗ mà bơm thì bao giờ mới bơm được?

- Thế thì dùng cái gì?

- Dùng bìu-khiu ấy!

- Cái bìu của đàn ông ấy à? Thế đàn bà muốn bơm thì lấy đâu ra bìu-khiu mà bơm?

- Mượn của đàn ông!

- Nói như cứt!  

Chuyện đến đấy thì không nhịn được nữa, lợi dụng lúc em đang lăn ra cười ngặt nghẽo, lão vật em ra rồi, lôi vào nhà “bơm lấy bơm để”!

Xong cuộc lão xách hòm đồ nghề sửa chữa cơ khí đi làm như không có chuyện gì xảy ra.

***

Chẳng có gì cao sang, nhưng sống với lão ấy em thấy không lo lắng. Mà lại thoải mái, và thế rồi lâu dần em cũng nhiễm tính hắn, không biết sợ là gì!

Một lần đang đêm, bọn em đang ngủ thì nghe thấy tiếng động nho nhỏ phía đằng sau. Hắn mò dậy, mò cái rựa dưới gầm giường, lần ra sau bếp.

Hai bóng đen đang mò mẫm, thì thào:

- Chỉ cần giấu thật kỹ tập tài liệu này, không tìm ra chứng cứ, thì bọn chúng đếch làm gì nổi ông chủ mình đâu!!!

- Nhưng nếu bị tóm thì sao?

- Thì “tỏi” chứ sao?

- Có bõ không?

- Bõ với bèn cái gì, giờ hai đứa mình sống có hơn đếch gì chết!

- Nhưng đây là cái gì hả?

- Tài liệu!

- Tài liệu gì?

- Đếch biết! Chỉ nhớ ông chủ dặn là phải cẩn thận. Làm xong là được thưởng lớn!

- Nhỡ như đây là tài liệu bán nước hay là đồ quốc cấm thì sao?

- Biết bao nhiêu thằng bán nước đấy thôi, đã thằng nào chết đâu, sợ đếch gì!

Nghe đến đấy thì thằng chồng em nhảy ra phang cho mỗi thằng một gậy. Rồi trói giật cánh khuỷu chúng vào với nhau. Soi đèn thì mới nhận ra hai thằng ôn con này cùng xóm, chuyên sống lêu lổng, không chịu học hành, lao động gì, chỉ chuyên trộm gà, bắt chó của người trong làng. Bị bắt, bị đánh, rồi lại tha, chứ ai nỡ giết chúng nó.

Cái cặp chúng đem đi giấu được lôi ra xem, bọn em cũng đếch biết gì, gói lại thật kỹ rồi vùi vào trong bồ thóc!

Ít lâu sau, có người nhắn nhe muốn gặp bọn em để trao đổi.

Lão chồng em không cho gặp, thế là chúng cho người rình hạ sát. Nhưng lão ấy là loại cóc tía, có biết sợ là gì.

Sô sát hai bên cùng bị hại, thằng rình rập bị một gậy vào đầu, phải có người khênh về, còn lão chồng em cũng bị một dao vào vai suýt mất mạng.

Ít lâu sau có người vứt vào nhà một bọc tiền to tướng bắn tin là để đổi lấy cái cặp tài liệu mà chồng em đang giữ. Đến lần thứ hai thì lão chồng em quyết định mang nó vứt ở ngã tư phố huyện, coi như gói đồ bị đánh rơi, ai nhặt thì nhặt, kệ cha chúng mày!

Em thấy hơi tiêng tiếc, hỏi thì lão ấy trả lời nhát gừng:

- Cứ để lại trong nhà mà vòi tiền bọn nó mãi được à? Đừng thấy bở mà đào mãi! Bọn ấy đều là bọn bất lương, bọn lưu manh có hạng. Chúng chưa ra tay thôi, chứ “ra tay thì gạo xay ra cám”. Tao với mày chỉ một dao là đi tong cả hai cái mạng chó ngay lập tức!

Cái bọc đồ cố tình đánh rơi ấy chì vài ngày sau thì biến mất, chẳng rõ là ai đã nhặt được và đang nằm ở chỗ nào?

Cũng không biết cái cặp tài liệu “quan trọng” ấy đã rơi vào tay người lương thiện hay bọn bất lương?

Người nào cũng đều có cách sử lý theo ý đồ của họ, cách sắp xếp của họ!

Kẻ thì cho là tiêu hủy, phi tang đi là tốt nhất, kẻ thì cho là phanh phui ra để trả đũa đối phương mới là hay!

Thằng ăn cắp thì muốn ỉm đi, không muốn ai biết những lần mình lấy trộm đồ.

Thằng đi bắt trộm thì ngược lại, chỉ muốn thiên hạ cùng tung hê những tang chứng, tang vật ăn cắp để ghi nhớ và tán thưởng công trạng của mình.

Tóm lại là các nhóm lợi ích đấu đá nhau để tranh giành quyền lợi và ảnh hưởng tiếng tăm.

Có một một xã hội thối rữa như thế, nó sinh ra trong dối trá và lừa lọc!

Nghĩ đi, nghĩ lại lão chồng em là khôn nhất. Lão bảo sống lương thiện, mình làm mình ăn là chắc nhất.

Vất vả, làm vãi cứt ra, mà vẫn không được ăn sướng mồm, nhưng yên bụng!


                                                                                                       Hà Nội, 2022.

 

 

 

tháng 9 09, 2022

Bãi biển Đà Nẵng - 2016


 

Hoa tím


 

Vợ đẹp

Tôi tốt nghiệp Đại học Bách khoa Hà Nội đầu năm 1965, được Viện Thiết kế Giao thông nhận về công tác thì đã thấy Hương làm ở đấy rồi.

Hương hơn tôi vài tuổi người Nghệ, cao to, khỏe mạnh và rất điển trai. Nghe đâu học rất giỏi, đỗ thủ khoa Trung cấp Giao Thông khóa 6.

Hương về Viện làm ở phòng Dự toán mấy năm đầu ai cũng quý, rồi chẳng hiểu sao cứ càng ngày càng “ba chi khơ” dần ra.

Đưa đi bệnh viện để chữa trị thì anh ta trốn về, đến kỳ lương xuống tài vụ lĩnh không thiếu một xu. Ai giải thích gì cũng không nghe.

Lại còn lý luận:

- Tôi đi làm không thiếu ngày nào, không bị kỷ luật, không nghỉ ốm, thì làm sao tôi lại phải lĩnh lươngh bảo hiểm!

Không ai dám nhắc đến từ dở hơi hay chầm chập trước mặt anh, không thì rắc rối ngay.

Anh ngồi ở cái bàn to nhất ngay sát cửa phòng kỹ thuật, hằng ngày hý hoáy vẽ vẽ, viết viết trên một thếp giấy trắng bằng bút chì những ý tưởng và những sơ đồ kỳ quặc, mà không ai hiểu gì cả và cũng không ai dám hỏi gì cả.

Một hôm, ông Cẩn mở cửa phòng bước vào với bộ trang phục com-lê, cà vạt, giày tất, tề chỉnh như một ông Tây, đứng trước bàn Hương hỏi:

- Thống có đây không?

Có lẽ dân phía trỏng quen mồm nói trống không, chứ không có ý coi thường người khác.

Đến câu thứ hai thì Hương ngẩng lên hỏi lại:

- Anh hỏi ai, hỏi tôi hay hỏi cái bàn?!

Cẩn sững người, mặt tái đi, không biết trả lời thế nào, thì Hương bồi thêm một đòn nữa:

- Vào phòng làm việc không gõ cửa, lại vẫn đội lù lù cái mũ trên đầu, thật không ra một cái giống gì!

Cẩn tím mặt lại, thì may lúc ấy Thấu đứng vội lên kéo anh ta ra khỏi phòng, vừa đi giải thích gì đấy.

Cả Viện mấy ngày trước mọi người đã được thông báo: đồng chí Nguyễn Ngọc Cẩn, vừa tốt nghiệp Phó tiến sĩ ở Liên xô về nhận chức Viện phó phụ trách về Cảng.

Nhưng đối với Hương thì Viện phó chả là “cái đinh” gì. Vả lại màn “gặp gỡ” vừa rồi Hương có nói câu gì sai gì đâu!?

Đầu tiên chỉ nhè nhẹ thế thôi, mọi người vẫn thấy có thể chịu được, cho qua được, nhưng sau thì “cấp độ” cứ tăng dần lên mãi.

Hằng ngày tan tầm, Hương đứng trên một mô đất cao, tay cầm cuộn giấy nhỏ hay một cái thước dài phất lên, hạ xuống thoăn thoắt chỉ huy mọi người như một cảnh sát giao thông lâu năm đứng điều hành xe cộ ở ngã ba, đường phố, chỉ dẫn dòng người và xe cộ từ sân cơ quan ra cổng.

Mãi cũng quen đi, không ai nói gì, không ai làm gì cả.

Ít lâu sau thì Hương đã ra ngoài cổng Viện ngồi uống nước, ăn bánh ở mấy quán ven đường, đứng lên trả tiền đàng hoàng, nhưng có một hôm anh ta đột nhiên bê cả lọ kẹo chạy ra khỏi quán. Chủ quán chạy theo giằng lại thì bị anh xô cho ngã sấp mặt.

Thế là Công an phải vào cuộc.

Cơ quan đành đứng ra nhận người rồi bàn cách giải quyết. Bàn đi, bàn lại mãi cuối cùng cũng chỉ còn cách gọi vợ anh ở quê ra để “giao giả tù binh” chứ chẳng còn biết làm sao được nữa!

Vợ Hương từ Nghệ ra, vừa gặp nhau chị đã ôm lấy chồng, khóc như mưa, rồi vuốt ve như đang ôm trong lòng một đứa trẻ “có lớn mà chẳng có khôn”. Mà cũng thật là lạ, mọi người ai bảo gì có khi Hương không nghe, đôi khi còn chống đối lại, nhưng khi vợ nói thì Hương răm rắp nghe ngay, làm theo ngay, y như một bé ngoan vâng lời cô giáo vậy.

Trước lúc đón chồng về, vợ Hương đã không quên để lại ít quà cáp và lời cám ơn cơ quan, cám ơn anh em cùng phòng thật chân tình.

Khi đã tĩnh tâm ngồi lại với nhau, ai cũng đều nhận xét: vợ Hương là người đàn bà rất khéo léo, biết cách ứng xử, đâu vào đấy, lại là một người đàn bà rất đẹp, rất duyên dáng nữa.

Chị còn là người đàn bà rất giỏi giang, hiện đang là chủ nhiệm một Hợp tác xã lớn ở Diễn Châu, đã có công xây dựng HTX vươn lên hàng đầu tỉnh và đã được nhà nước khen thưởng, được đi báo cáo điển hình tại Trung ương và nhiều tỉnh thành miền Bắc.

Chị đưa chồng về rồi, mà sau ai cũng cứ nắc nỏm mãi: Hương thật có phúc lấy được người vợ đã đẹp lại còn giỏi giang.

Mấy hôm sau, khi mọi việc đã lắng xuống, Thấu thủng thẳng nói một câu chẳng đâu vào đâu, làm anh em cứ cười mãi:

- Anh Hương lấy vợ đẹp quá, nên mới hóa ra chầm chập đấy các bác ạ!

Rồi Thấu còn trích dẫn câu của văn hào Somerest Maugham (1874 – 1965) đã viết:

“Tại sao đàn bà đẹp thường kết hôn với những loại đàn ông không ra gì?

Và bởi vì:

Đàn ông thông minh không bao giờ cưới đàn bà đẹp.(1)

…………

 Có lẽ đúng vậy cũng nên!

 

                                                                                                       Hà Nội, 2022.

 

(1): Trích từ “Các nhà Thông thái và 6000 câu danh ngôn Thế giới” – Nhà xuất bản Thế giới phát hành năm 2005, trang 469.

 

 

 

tháng 7 28, 2022

Lọ hoa hồng


 

Hà Nội - Hà Nội


 

Sống ảo

           Cô gái này là em gái út ông bạn tôi, kém tôi hơn chục tuổi, không xinh, nhưng hay làm điệu. Uống rượu ngang ngửa với đàn ông, nhưng cái đặc điểm nổi nhất của cô ta là nói năng văng tê, bạt mạng, không biết kiêng nể một ai!.

Sáng qua tôi và ông bạn đang ngồi uống nước ngoài hè, thì cô ta đi qua nói trống không:

- Chuyện gì mà ngày nào mấy ông cũng nói mãi không hết thế! Cứ tào lao mãi có no bụng được không?

Tôi chưa kịp nói, thì ông bạn đã chép miệng phân trần:

- Nó sinh thiếu tháng, từ bé đã yếu đau quặt quẹo, không lúc nào rời niêu thuốc Bắc của bố tôi. Cả nhà thương hại, không ai chấp nên nó quen ăn nói chất chưởng như thế, ông đừng để ý!

- Ừ, hơi đâu mà để ý! Tôi đành xuê xoa cho xong chuyện.

- Từ nhỏ nó đã quen ăn nói thế, không ai sửa, đến giờ thì thành tật, có muốn sửa cũng không sửa được nữa!

Rồi ông nói tiếp:

- Khổ thế, giờ đã có tuổi vẫn chẳng chồng con. Sống cô độc nên ngày càng ngang ra như cua, chả biết làm sao nữa!

- Chả nhẽ chỉ vì mọi người nuông chiều quá mà hóa ra như thế ư? Tôi thấy vẫn chưa thuyết phục lắm.

- Có một chuyện chắc ông chưa biết, hồi cách đây cũng đã lâu, lúc nó mới gần hai mươi tuổi, chẳng hiểu sao một hôm nó bỗng làm một bài thơ, cả nhà thấy cũng là lạ, vì cả nhà tôi, tám, chín anh em đều làm nông, chứ có ai biết thơ thẩn gì đâu. Lúc ấy mọi người trong nhà thấy cũng bình thường nhưng con chị trên nó, có chút nhan sắc, đang “đi lại” với một anh có chút địa vị trên huyện, có lẽ chúng nó để “lấy lòng” nhau thế nào ấy, anh này đưa bài thơ đó cho một ông nhạc sĩ tầm tầm phổ nhạc.

Bài hát ấy được một ca sĩ vặn vẹo biểu diễn trong dịp mà người ta đang ra sức ca ngợi phụ nữ nhân ngày Quốc tế Phụ nữ. Thế là mọi người biết đến nó, nói đến nó. Những người sành thơ và cả những người chưa bao giờ biết đến thơ, hùa nhau ca ngợi quá lên, làm như nó là một nhà thơ lớn, thiên phú bẩm sinh.

Nhưng cái khổ lớn nhất là bản thân nó cũng lại nghĩ rằng mình đúng là một nhà thơ vĩ đại mà mọi người đã không biết đến, đã quên lãng bao nhiêu năm qua.

Tôi hỏi:

- Thế rồi sau đó các hội hè ở làng với cả ở địa phương, có ai tìm đến để “đưa nó” vào hội không?

- Có, cũng có mời nó vào hội văn nghệ để “gây thanh thế cho phong trào” địa phương!

- Tốt quá rồi còn gì!

- Tốt cái gì! Đó chẳng qua chỉ là những dịp đàn đúm cho mấy ông, bà “văn nghệ sĩ nghiệp dư”! Hội họp, tổ chức ăn uống say sưa bét nhè. Họ ra sức “ca ngợi” nhau, “tâng bốc” nhau, đưa nhau lên tận mây xanh, để thỏa mãn cái cá nhân mình và để tự lừa dối chính mình. 

- Ông đừng quá nghiêm khắc! Nhưng hoạt động “vất vả” thế có thu được đồng nào không, và hàng tháng có được trên bồi dưỡng gì không?

- Tôi đã chẳng nói là để “đàn đúm” đấy thôi! Ăn uống thì bỏ tiền túi ra, chứ hội đào đâu ra tiền?

- Nếu thế thì không ổn rồi. Địa phương cũng không hỗ trợ gì à?

- Khi nào khéo léo mời được mấy ông bà quan chức địa phương đến dự thì cũng được các ông bà ấy bố thí cho một ít, nhưng chẳng bõ bèn gì!

- Riêng cô em ông cứ ngơ ngơ thế, thì sau này khi ông bà mất rồi, ai nuôi?

- À, tôi có cho đi học một lớp đào tạo công nhân cơ khí, sau đó xin cho vào làm ở một công ty nhỏ ngay làng bên. Thỉnh thoảng có người nào ốm đau sơ sơ, lại đi bấm huyệt chữa các bệnh thông thường như đau nhức xương khớp, đau bụng kinh nguyệt cũng có tí tiền.

- Biết cả bấm huyệt nữa?

- Ông quên bố tôi là lang y nổi tiếng cả vùng này à, chả thế cụ nuôi được cả nhà tám, chín đứa con?

- À, ra thế!

- Cả nhà tôi, ai cũng lo cho nó, chăm chút nó, chỉ lo sau này yếu đuối thế, mà lại không kiếm ra đồng nào thì bấu víu vào đâu mà sống?

Khổ nỗi dù chỉ là cô thợ quèn, không được học hành gì, nhưng nó lại sống “say sưa”. trong cái bong bóng ảo tưởng ấy. Nó cắm cúi “làm thơ” và khi gom góp được đồng nào là đem đi xuất bản rồi mang đi tặng khắp nơi cho mọi người trong hội thơ của nó và cả những người chưa biết thơ là gì. Bên cạnh đó cũng lại “nẩy nòi” ra một số “đầu nậu” chuyên “buôn bán các hội hè” thổi nó lên rồi bám vào đó mà kiếm sống.

Ông bạn tôi ngừng lại trầm ngâm một lúc, rồi nói:

- Mà ông cũng thấy đấy, khi có người mang tặng mình một cái gì đó, thì dù cái đó có dùng được hay không, ai cũng thường tỏ ra cảm kích, xúc động.

Khổ nỗi các loại hội hè cứ động đến thơ ca, hò vè là thế nào nó cũng có mặt, cũng tham dự thật nhiệt tình, từ đầu chí cuối.

Ngày qua ngày nó cứ sống “nửa tỉnh, nửa mê” như thế. “Cao không tới, thấp không thông”. Không ai được nó coi là xứng tầm với mình. Và thế rồi nó đã bỏ qua rất nhiều dịp những người khác giới tìm đến. Mà cũng phải có đến hàng chục lần chứ không ít.

Có một thời kỳ nó như động cỡn bắt nhân tình bừa với một tay lính hải quân người miền trong đã có gia đình, đóng ở Đồ Sơn. Có con với hắn ta nhưng không nuôi được. Cũng may sau đó gia đình thằng nọ cũng không đến đánh ghen, còn hắn cũng đột nhiên lăn cổ ra chết, nên không có chuyện gì xảy ra nữa.

- À, đấy là đòi hỏi thông thường của thời tiền mãn kinh ấy mà! Tôi giải thích vớ vẩn.

- Giờ thì đã quá muộn rồi đành cô quạnh suốt đời, đêm ngày thở than cho số phận hẩm hiu của mình!

Rồi ông bạn tôi đưa ra nhận xét buồn buồn khi đã đúc kết cả một quá trình sống:

 - Thế mới biết, khi thành công đến quá sớm, lại được “tâng bốc quá đà lên tận mây xanh”, làm cho mình mụ mẫm đi, không biết mình là ai nữa, đôi khi làm người ta mắc phải một chứng bệnh cự kỳ khó chữa, như bệnh dây thì sớm mà một số cô bé đã mắc phải (precocious puberty symptoms).

Chúng tôi ngồi thật lâu bên cạnh bàn nước đã nguội ngắt. Rồi để nhắc lại một kỷ niệm chẳng mấy vui, ông bạn tôi chầm chậm nói:

- Trước lúc mất, mẹ tôi vẫn không yên lòng về nó, vẫn lo lắng cho nó, đã thều thào dặn dò kỹ mấy anh em chúng tôi:

- “Kể như con Thanh nó không biết làm thơ thì đời nó đã không khổ như bây giờ! Các con phải để tâm đùm bọc lấy em, thì mẹ mới thanh thản ra đi được!”.

 

                                                                                                       Hà Nội, 2022.

tháng 3 24, 2022

Du lịch Đà Nẵng - 2016


 

Lọ Hồng


 

MỔ MẮT

Ngồi buồn mang mổ mắt,

Xem đời đục hay trong,

Hóa ra trong thiên hạ,

Chỉ mình ta không tròng!

*** 

Người đời đều sáng láng,

Ta chỉ biết sờ lần.

Tìm mãi mà chẳng thấy!

Đâu là thiện, là chân!?

                                             Hà Nội, 2022.

(mắt trái 01/06/2022 – mắt phải 03/06/2022)