tháng 12 24, 2017
Nhà học giả và cô vợ xinh đẹp
Khi tôi khoác
ba-lô, khăn gói lên Công trường 74 nhận nhiệm vụ, thì được ông Chủ
nhiệm(1) Nguyễn Chiến niềm nở đón tiếp. Chiều tôi sang trình diện ông Phó chủ nhiệm Lê Bộ Phụ
trách Kỹ thuật công trường.
Công trường này
được Bộ Giao thông thành lập năm 1974, nên gọi tắt là công trường Bảy Tư, cùng
với Đội Xây dựng Hồ Chí Minh của Cu-Ba do đích danh Chủ tịch Fidel Castro thành
lập và đưa sang giúp đỡ Việt Nam xây dựng cầu đường.
Công trường Bảy
Tư đóng trên một quả đồi cạnh quả đồi của Đội Xây dựng Cu-Ba tại thị xã Xuân
Mai, có nhiệm vụ làm mới con đường từ Xuân Mai đến Ba Vì dài trên 30 ki-lô-mét
và 13 chiếc cầu nhỏ và trung nằm trên đó.
Sau này tôi còn
biết thêm ông Lê Bộ Phó chủ nhiệm là con út bà vợ hai một nhà Giáo dục lớn và cũng là nhà Biên khảo Việt Nam
có tiếng của nước ta.
Ông Bộ luôn
đĩnh đạc, trên tay không mấy khi rời quyển từ điển Anh-Việt Việt-Anh dày xấp xỉ
2000 trang, nặng trịch. Tất cả mọi người đều kính nể sự “uyên bác” của ông và
đều gọi ông là nhà học giả. Chẳng cứ tôi, mà ai cũng quan niệm chỉ những học
giả mới có chiều dày kiến thức đến hai nghìn trang như thế!
Khổ nỗi mấy tủ
hồ sơ lớn chật cứng tài liệu kỹ thuật lại toàn bằng chữ Tây Ban Nha. Vì thế
quyển từ điển Anh-Việt dày kia chẳng có tác dụng mấy ngoài việc tô điểm thêm
cho “bức chân dung học giả” được toát lên ở ông.
Mãi sau, ông
biết tôi cũng có biết chút tiếng Anh và nhất là sau khi tôi khai thác được đống tài
liệu đồ sộ bằng tiếng Tây Ban Nha, ông đã hỏi han tôi thân mật hơn tí
chút. Tôi vui vẻ trả lời vị lãnh đạo rằng tiếng Tây Ban Nha có nhiều phần giống
tiếng Pháp, mà tiếng Pháp thì bọn học trò tuổi ông, tuổi tôi làm gì chẳng biết
một ít. Từ đó ông mới thôi không cắp quyển từ điển to, dày ấy nữa. Cũng may sau
đó ông không tỏ ra giận dỗi hay thù ghét gì tôi cả.
***
Việc tôi không nhận chức vụ ở Công trường sau cũng gây ra
không ít phiền toái.
Chả là lần về nhà vợ tôi phải cấp cứu vì suy tim, không kịp
chạy ngay lên công trường để xin phép nghỉ được.
Tôi vội viết lá đơn xin nghỉ phép gửi Bưu điện lên cho
mấy ông chỉ huy, nhưng trong lòng vẫn áy náy, chưa thật yên tâm lắm.
Hôm đón vợ về nhà, tôi vừa cọc cạch đạp xe đến Xuân Mai,
thì ông Phó chủ nhiệm phụ trách Kỹ thuật, “chủ nhân ông” quyển từ điển nặng
trịch gần hai nghìn trang, gọi tôi vào, pha nước uống rồi đưa lá đơn xin nghỉ
phép tôi viết ra cho tôi xem.
Tôi chột dạ biết lỗi, vội trình bày:
- Xin lỗi chỉ huy, đáng lẽ tôi phải lên đây xin được phép
rồi mới nghỉ, nhưng do hoàn cảnh ngặt quá. Tôi viết đơn gửi qua Bưu điện. Thế
là có lỗi, tôi xin lỗi anh.
- Tôi không nói về cái chuyện anh xin nghỉ phép lại gửi
đơn qua Bưu điện. Nhưng anh thử đọc lại cái đơn anh viết xem nó thế nào?
- Có chỗ nào sai sót xin anh chỉ bảo.
- Anh định “chơi” tôi phải không?
- Sao anh lại nặng lời thế ạ?
- Anh viết cái đơn xin nghỉ phép mà lại để tên tôi và tên
thằng Đoàn cùng chỗ.
- Ơ hay, anh là chỉ huy tối cao về kỹ thuật ở công
trường, còn anh Trần Đoàn là trưởng phòng Kỹ thuật. Chả nhẽ chỉ là một lá đơn
xin nghỉ phép, có hai anh lãnh đạo, tôi lại viết thành hai lá. Vả lại trong đơn
tôi đã xếp anh phía trên đấy thôi ạ!
- Nhưng thằng Đoàn chỉ là Trung cấp.
- Trung cấp, nhưng anh Đoàn vẫn là trưởng phòng tôi.
- Anh coi tôi ngang như thằng Đoàn!
- Anh là anh, còn anh Đoàn là anh Đoàn, về tuổi tác và
chức vụ anh đều hơn anh Đoàn. Mà sao anh lại hỏi tôi thế? Hay trong lá đơn này
có chỗ tôi viết sai chính tả?
- Tôi cũng chẳng hiểu sao khi Tổ chức bố trí anh là Phó Chủ
nhiệm công trường anh nhất định không nhận, để bây giờ anh phải viết đơn xin
phép một thằng Trưởng phòng mới học trung cấp?
- Về việc này tôi đã báo cáo với Đảng ủy Công trường rồi,
mong anh hiểu cho ạ.
- Nói vậy thôi, chứ cùng học Bách Khoa, cũng “xêm, xêm”(2) tuổi nhau, tôi với anh vẫn là bạn mà.
- Tôi chưa bao giờ coi anh là bạn.
- Thế anh coi tôi là gì?
- Anh là Phó Chủ nhiệm Công trường. Anh là cấp trên của
tôi.
- Cấp trên cũng có thể là bạn chứ!
- Chưa
bao giờ.
-
Tại sao?
-
Tôi thấy tôi không thể!
Thế
rồi vì không thể là bạn của nhau nên chỉ ít lâu sau đó tôi không còn nhớ gì đến
ông Phó chủ nhiệm công trường ấy nữa.
Ông
Phó Chủ nhiệm Lê Bộ gốc người Hà Tĩnh, nhưng bố ông đã ra Hà Nội từ những năm
1930 nên ông sinh ra đã là người Hà Nội. Chẳng bao giờ ông nhắc đến quê hương
Hà Tĩnh cũ. Cái đó cũng chẳng lấy gì làm lạ, nhiều người trước có dính dáng đến
Hà Nội tí chút thì dù đã đi khỏi Hà Nội mấy đời, khi nói người ta vẫn nhắc đến
là đã từng ở Hà Nội. Nhưng nếu đó là quê nghèo thì dù chỉ vừa đi khỏi cũng chẳng
ai muốn nhắc đến vùng quê đó nữa, chả cứ gì ông!
Ông
Bộ là một người đàn ông cân đối, dáng rất chuẩn nhưng có lẽ do ông ăn mặc quá
chỉn chu gọn gàng. Áo quần luôn được là thật phẳng phiu, áo bao giờ cũng cắm
thùng tử tế vì thế nên người ngoài nhìn có cảm giác hơi là lạ, y như thấy cặp
chân dài quá so với cái thân bên trên ngắn quá.
Ông
luôn chỉn chu thế nên vợ ông nên tất nhiên phải là người đàn bà đẹp và rất hoàn
chỉnh.
Vợ
ông, cô Thi là một cô giáo dạy Nga văn cấp 3 giỏi có tiếng ở Hà Nội. Một cô
giáo dạy giỏi tại Thủ đô nên tất nhiên cô phải giao lưu, tiếp xúc với rất nhiều
loại người, rất nhiều các tầng lớp trong xã hội. Trong đó có đủ các hạng người,
tốt có, xấu có. Mà bao giờ xấu cũng nhiều hơn tốt.
Ở
đời cũng chẳng ai lạ gì bao giờ thằng xấu cũng giàu hơn thằng tốt, nên trong
khi ông còn đang vất vả “tạo dáng” với quyển từ điển nặng trịch trên công
trường, thì học trò bắt gặp “cô giáo xinh đẹp và đáng kính” của chúng cặp kè với mấy ông
“người xấu” nhiều tiền. Một lần chúng còn thấy cô giáo tay trong tay một ông
Liên-Xô to vật vào Hô-theo(3) nghỉ nữa. Tất nhiên ở đời không ai cấm được ai
“nghĩ bậy” về việc đó.
Sự
việc này sau hình như cũng đến tai ông, ông chả biết tâm sự với ai nên một hôm
tự nhiên ông lại ngồi kể lể với tôi:
-
Nhà tôi là một nhà giáo giỏi có tiếng, nên hay phải giao tiếp với quan khách các
cấp và nhiều đối tượng, kể cả người nước ngoài. Nên nếu chỉ nhìn hiện tượng bên
ngoài một cách hời hợt rồi suy diễn thì làm sao mà thấu hiểu được cái nội dung
sâu xa bên trong được!
- Tất nhiên! Nhìn bên ngoài thì thấy thế nào
được những cái ở bên trong! Tôi vội vàng hùa theo ý kiến của cấp trên một cách
rất hào hứng.
***
Mấy
năm sau cô giáo Thi được sang Nga thực tập để “nâng cao nghiệp vụ”! Ông sang
thăm vợ, chẳng may bị mấy thằng “đầu trọc”(4) đánh nhầm, chết ở bên ấy.
Khi
nào nhớ đến ông tôi cũng nghĩ, ông sinh ra phải là người Nga thì hợp hơn là
người Việt ta.
Hà Nội, 2017.
(1) Chủ nhiệm: Người đứng đầu
một tổ chức hoặc một cơ quan.
(2) Xêm, xêm: Tiếng Anh:
same: giống như nhau, cũng vậy, cũng như thế.
(3) Hô-theo: Hotel Tiếng Anh:
nhà nghỉ, khách sạn
(4) Mấy thằng đầu trọc: Bọn
Ma-fi-a Nga
tháng 11 22, 2017
Điếc đặc
Tôi biết vợ chồng nhà này từ những năm 1961-1962.
Cũng lập thân từ con số không tròn vành vạnh. Nhưng do ở mãi tận Sơn Tây nên dù
sao cũng ít nhiễm cái “thói thị thành” như ngoài Hà Nội.
Hồi đó, có bằng Đại học thì dù ở đâu cũng vậy, chẳng
cứ là tận Sơn Tây cũng đã gần như “nhất khoảnh” rồi.
Lúc đó đi lại còn khó khăn, “cái sự văn minh” chưa
“tràn vào”, nên khi mới đang chuẩn bị tốt nghiệp Đại học, mọi người trong nhà
đã bắt cậu ta phải lập gia đình. Sau đó chỉ còn biết làm hùng hục như trâu để nuôi
con và để…“đẻ”. Cũng chẳng hiểu ra làm sao nữa, sống vất vả, khổ sở là thế mà
vợ chồng nhà này đẻ đến bảy đứa.
Sau này có hỏi thì mới rõ vì bốn đứa đầu là gái nên
cố để “ra cho được” một thằng chống gậy! Ra một thằng, vẫn “chưa chắc ăn lắm”
thế là thêm, rồi thêm nữa. Đến thằng thứ bảy thì hai vợ chồng không mở được mắt
ra nữa, cơm phải chia xuất để bọn trẻ không “tranh giành, đánh nhau đến chết”!
Quần áo không đủ mặc, ốm không thuốc thang, cố cho con đi học là may lắm rồi.
Được cái con nhà nghèo, bọn trẻ vừa ngoan, vừa chịu
khó và đặc biệt, trời phú cho chúng đều khỏe mạnh và đều học giỏi.
Cái lương kỹ sư Cầu cống lúc bấy giờ làm sao mà cáng
được chín miêng ăn, vì vậy hai vợ chồng không dám từ nan một việc gì. Ngoài giờ
làm ở cơ quan, anh chồng làm kem cốc(1) ăn dỗ tiền trẻ con ở cổng trường tiểu
học, chị vợ đi chợ xa mua mẻ tôm, mẻ tép về bán lấy lời. Ai thuê làm bất kỳ cái
gì, sửa chữa bất kỳ cái gì, đều làm tất, chưa bao giờ dám lắc đầu từ chối!
Có đận, các cán bộ Quản lý Thị trấn đã cắt gạo của
cả nhà vì cho rằng họ có tham gia buôn bán và sản xuất nhỏ, nên hộ này đã được
“nâng thành phần” lên tiểu thương. Mà đã là tiểu thương thì làm sao nhà nước
phải cấp gạo tiêu chuẩn nữa!?
Đến bây giờ họ vẫn còn ứa nước mắt khi nhắc đến giai
đoạn cực kỳ khốn khổ ấy.
Họ kể trong nước mắt:
- Hai vợ chồng nghèo nuôi bảy đứa con mà bị cắt gạo
thì có khác gì bị “kết án tru di”? Nhiều lúc đã tưởng không làm thế nào vượt
qua được. Chỉ còn một cách là cả nhà cùng uống thuốc chuột thì mới hết khổ
được.
May sao sau đó bà nhà tôi nghĩ ra cách biếu ông
Trưởng phòng Lương thực thị trấn mấy cái áo len nhà dệt, nên tháng sau lại được
cấp lại sổ gạo.
Tôi nói chen vào để câu chuyện đỡ nghẹn ngào:
- Lúc ấy mà đã có máy dệt len là “oách xà-lách” rồi,
còn gì!?
- Đói đầu gối phải bò mà! Cứ thấy cái gì có thể kiếm
ra gạo nuôi con là làm ngay tắp lự! Mà cũng chỉ là cái máy dệt đẩy tay, nhỏ đặt
trên bàn của Miền Nam
thải ra.
- Thế là vừa làm kem cốc, vừa dệt len à?
- Mấy cháu lớn đi học về phải phụ với bố, mẹ. Đứa
lớn phải ra chợ bán tép cùng mẹ, mấy đứa nhỏ thì dệt len, làm kem cùng bố. Con
cháu lớn hiện công tác tại Công an Sơn Tây, cũng đã năm mấy tuổi rồi, giờ đã là
một lãnh đạo cấp hàm Đại tá mà mỗi khi nhắc đến giai đoạn khổ cực ấy vẫn chảy
nước mắt thương bố mẹ và các em.
Được cái ông trời cũng chưa triệt đường sống của ai
cả, trải qua mấy chục năm, giờ đây cả bảy đứa đều trưởng thành. Đã có gia đình,
con cái, nhà cửa đàng hoàng, công ăn, việc làm tử tế. Đứa nào cũng có một hai
cái ô-tô riêng. Có vài đứa đã làm đến quan đầu tỉnh. Khi sáp nhập Sơn Tây vào
Hà nội thì hai thằng út ít cũng chuyển ra công tác tại Hà Nội. Thằng út giờ
cũng đã là Thiếu tá Công an rồi. Tất cả các con đều hiếu đễ, tận tình chăm sóc
bố mẹ và thương yêu anh em trong nhà.
Nhìn vào cái ảnh chụp toàn cảnh gia đình ông bà hôm
kỷ niệm năm mươi năm ngày cưới, cả con, cả cháu chắt phải đến gần sáu chục
người xếp hàng tư mà kéo dài hết cỡ làm cho người xem lầm tưởng là ảnh của một
hội nghị cấp cao nào đó của tỉnh vừa “kết thúc tốt đẹp”!
***
Hôm nọ ông ấy ốm mệt, có nhắn tôi lên chơi. Đã trên
tám mươi, bị phổi thì phải, nên luôn bị cái bệnh khó thở hành hạ. Cũng đã đi
nước ngoài điều trị mà không dứt.
Lúc ngồi uống nước với nhau, tôi nói đùa:
- Ai bảo đẻ cho lắm vào, ai bắt phải nai lưng ra cầy
cuốc nuôi con. Cả đời không biết du lịch là gì, giải trí là gì. Ở Sơn Tây mà có
khéo rủ mới đi đến Đường Lâm cách nhà chục cây số, nơi mà ai ai từ đẩu, từ đâu
cũng mò đến tham quan đất hai vua nổi tiếng như cồn này.
Tuy đang khò khè mà ông ấy vẫn cười khơ khớ nói:
- Đẻ nhiều có cái khổ của đẻ nhiều, nhưng bây giờ
một năm vợ chồng tôi đi nghỉ mát bốn, năm nơi vẫn chưa hết xuất! Muốn khám bệnh
ở bệnh viện nào cũng có tiêu chuẩn. Muốn đi đâu không phải chỉ một đứa xin đưa
đón. Tôi có tới mười bốn đứa cả dâu, rể cơ mà!
Bà vợ cũng xấp xỉ tám mươi, còn khỏe hơn chồng một chút,
nhưng phải cái điếc đặc.
Con cái cũng đã đưa mẹ đi khám bệnh khắp nơi, nước
ngoài, nước trong đủ cả. Các giáo sư hàng đầu chẩn đoán bà bị viêm tai giữa thể
sùi, có cholesteatoma(2)
phẫu thuật cũng không mấy hy vọng khỏi. Cách tốt nhất là uống thuốc kháng sinh
hỗ trợ.
Tất cả các loại máy trợ thính đắt tiền của các nước
tiên tiến giá đến hàng mấy chục triệu đồng cũng không làm “suy suyển” cái “lỗ
nhĩ” bướng bỉnh của bà!
Ông chồng được đặc cách ngồi bên vợ để ghé sát vào
tai mà truyền đạt lời người khác nói.
Con cái được dịp trêu bố mẹ là các cụ cứ tranh thủ
thơm nhau suốt ngày!
Tuy “điếc đặc”, nhưng bà vẫn là “nhạc trưởng” của
cái “dàn hợp xướng” vĩ đại này. Lời bà nói ra là mệnh lệnh, đến ngay ông cũng
chẳng dám “ho he” ý kiến, ý cỏ gì, chứ đừng nói gì đến những đứa khác!
Bọn trẻ thường bôi bác: “Một vị chỉ huy thật vĩ đại,
chỉ phải cái điếc đặc”!
Bây giờ họ đã an nhàn, vật chất không thiếu đã đành,
đến tình cảm trong gia đình và bè bạn cũng tràn trể, đầy đặn.
Không chỉ có những người quen biết mà hầu hết dân
trong cái thị trấn rộng lớn này đều nể phục và ngưỡng mộ họ.
***
Hằng ngày đến giờ uống thuốc, ông chồng có nhắc nhở,
thì nhiều lần bị bà ấy vặc lại:
-
Tôi làm gì
có tai giữa mà viêm! Sao phải uống thuốc cho tốn kém!
Ông ấy chép miệng nói với tôi:
-
Nghe bà ấy
nói thế vừa buồn cười, vừa thấy tội nghiệp. Có lẽ một thời gian khổ vẫn chưa
phai nhạt trong ký ức, bà ấy luôn nghĩ rằng đến cơm cũng chẳng đủ ăn, lấy đâu
ra tiền mua thuốc để uống cho lãng phí!
Hà Nội, 2017.
(1)
Kem cốc: Đổ hỗn hợp bột đã nấu chín và
đường vào một ống nhỏ hình trụ bằng kim loại, đặt trong một thùng gồm đá lạnh
đập nhỏ trộn muối. Dùng tay quay ống trụ có hỗn hợp đến khi đông lại thành kem,
múc vào cốc thủy tinh nhỏ bán cho học sinh ở cổng trường tiểu học.
(2)
Viêm tai giữa thể sùi, có cholesteatoma: một thể viêm tai nặng khó chữa.
tháng 11 18, 2017
Tự sự về một món nợ
Ngõ Đền Đống Đóm, một xóm nghèo bên cạnh
nhà máy Xi măng Hải phòng, là nơi cư ngụ của những con người bị bần cùng, không
sống nổi ở quê nhà phải ra thành thị kiếm ăn, trở thành những cu ly, chui rúc
trong những căn lều quanh năm phủ đầy bụi than, bùn lầy, nước đọng.
Bạn tôi: ông Trần Quốc Khánh, sinh ra và
lớn lên ở đó.
Từ những năm 50 của thế kỷ trước, cùng
học một lớp với nhau ở trường Ngô Quyền, Hải Phòng tôi thường sang nhà ông
chơi. Năm 1959, mấy anh em chúng tôi đều bị đánh trượt lớp 10, (lớp cuối cấp 3
đầu tiên của Hải Phòng lúc bấy giờ), do không “cùng cạ” với thày hiệu trưởng
Nguyễn Văn Hòa, mặc dù chúng tôi học đâu có đến nỗi tồi!
Tự ái chúng tôi không chịu học đúp. Tôi
xin đi dạy học ở Sở Công an Hải Phòng, còn ông Khánh thì đi đẩy xe than ở nhà
máy Xi măng.
Năm 1960 chúng tôi quyết tâm vừa đi làm
vừa ôn tập để thi hết cấp, chúng tôi đã tốt nghiệp kỳ thi năm đó một cách dễ
dàng.
Những ngày ôn thi tôi thường đến nhà ông
Khánh để cùng học, đã chứng kiến cuộc sống của gia đình ông như thế nào.
Cụ ông co mình cam phận với cái “chức”
nhân viên Phòng thí nghiệm nhà máy Xi măng. Cụ bà hàng ngày kẽo kẹt với gánh
hàng vặt bên chân cầu. Bà Hiền vất vả với ông chồng bệnh tật, bên ngoài luôn
chì chiết, nhưng bên trong lại rất mực yêu thương các em, giống hệt với tính cụ
bà.
Bà Dung lấy ông Luận “nghệ sĩ”, cả đời
không đóng nổi một cái đinh. Ông Khánh vẫn say thơ tình da diết với màu xanh
trong mơ và những bức tranh đồng quê yên ả, bên những nhọc nhằn của kiếp cu li.
Năm 1961, cả mấy anh em chúng tôi cùng
thi đậu vào trường Đại học Bách Khoa, Hà Nội, chuyên ngành Cầu đường bộ.
Sau 4 năm rưỡi học tập, ông Khánh về công
tác tại Viện Thiết kế Bộ Giao thông, còn tôi vào phục vụ trong quân đội. Ông
Khánh gắn bó với nghề suốt đời, còn tôi thì lông bông cái gì cũng làm được, cái
gì cũng làm qua nhưng chẳng có cái gì giỏi cả.
Tuy không phải là ruột thịt, có chênh
nhau chút ít về tuổi tác, nhưng quan hệ thì bình đẳng, chí tình, chí nghĩa, tri
âm, tri kỷ.
Có một việc từ năm 1993 tôi còn nợ ông
Khánh, đó là việc đòi lại mảnh đất nhà ông. Vì vậy đến nay tôi cố gắng trả xong
món nợ này.
Thú thực với ông, năm đó mải mê với công
việc Nhà nước giao cho, sự hiểu biết của tôi cũng còn nông cạn về lĩnh vực đất
đai, nên khi được giải thích là người ta đã có thông báo đền bù mà mình không
đến lấy thì mình cũng có lỗi, lủi thủi ra về cũng không nghĩ đến việc yêu cầu
họ xác nhận vào đơn.
Chắc là hồi đó họ cũng chỉ quen lý giải
bằng mồm, tôi đưa trả lại đơn cho ông và viết vài dòng chữ vào một mảnh bìa để
ông tin, coi như thế là xong!
Sự việc thế rồi rơi vào quên lãng, dòng
đời cứ trôi. Các cụ lần lượt ra đi cả, ông Huyên, ông Luận, bà Dung cũng đã đi
theo các cụ. Chúng tôi đã nghỉ hưu, cũng đã là những ông lão tóc bạc, nhưng
răng chưa long, vẫn ham vui và vẫn thích nhiều thứ.
Ngoài việc đi làm để kiếm tiền thêm cho
gia đình, ông vẫn mang nặng tâm hồn nghệ sĩ, vui thú với những cái chẳng kiếm
ra đồng nào: vẽ vời, làm thơ, chụp ảnh, viết văn châm biếm.
Còn tâm hồn tôi có lẽ đã khô cứng nên
chẳng có thơ, chẳng có văn, không mấy lúc có thời gian mở cửa để đón nàng thơ
và vẫn thích phiêu du trên những nẻo đường, đi tìm những cái đã mất trong đời.
Tôi chợt nhớ về món nợ năm xưa khi ông
nhắc tới, nghĩ tới sự ấu trĩ hồi nào cứ cho rằng nhà mới là tài sản của mình,
đất là của nhà nước. Nhà mình không còn, thì đất nhà nước thu về giao cho cơ
quan nhà nước dùng là lẽ đương nhiên. Sự ấu trĩ của tôi cũng là sự ấu trĩ của
rất nhiều người, trong đó có ông. Chúng ta đã bị chính sách ngu dân đẩy vào
vòng tăm tối, u mê.
Lúc này đã có luật đất đai, tôi yêu cầu
ông tìm thật được Nghị định 181 để đọc và đã thấy khả năng đòi lại đất, cùng
ông làm đơn khiếu nại với tia hy vọng mong manh.
Càng đọc những văn bản trả lời của đối
phương, những văn bản luật, được sự giúp đỡ tận tình của các ban (ông Thanh,
ông Duyệt, ông Lân, ông Viên) chúng tôi đã thu được những tài liệu quý giá,
trói chặt và buộc đối phương phải trả lại tài sản cho ông.
Công ty Xi măng Hải phòng chiếm đất nhà
ông có theo pháp luật nào đâu, thế mà ngày nay người ta lại bảo phải giải quyết
theo pháp luật? Thực là “chua xót”
Ông Khánh ơi, chúng ta đã sờ thấy cái kim
dưới đáy biển rồi, nhưng không biết “vớt lên” sẽ ra sao.
Cầu mong vong linh các cụ phù hộ kim vàng
long lanh dưới ánh mặt trời, tôi cũng toại nguyện đã trả xong món nợ.
Hải phòng, ngày 4 tháng
7 năm 2006
Đỗ
Bảo Cung
TB: Tôi đưa bản viết này cho bà Lộc nhà
tôi xem. Tôi hỏi:
- Viết có được không ?
Bà tủm tỉm cười:
- Được
Là một nhà văn không biết ông đánh giá
thế nào, chứ với giọng văn này cách đây trên 40 năm, bà Lộc đã bị tôi chinh
phục vì nó xuất phát từ tấm lòng mộc mạc chân thực của con người./.
Hải Phòng, 2006.
tháng 11 14, 2017
Thằng Đạo
Tôi có thằng em họ xa, kém tôi hơn hai chục tuổi, ít
học, nhưng cái gì cũng biết, hoặc tỏ ra là biết. Lém lỉnh, nhanh trí và đặc biệt đón ý người
khác rất nhạy! Phải cái hay trí trá, mười chuyện nó nói dù được thề thốt hẳn
hoi thì cũng chỉ nên tin nửa chuyện!
Nó thuộc týp(1) người: “nói dối không chớp mắt, ăn
cắp chẳng run tay”! Tôi đùa gọi nó là thằng Đạo.
Nó hỏi lại:
-
Bố mẹ đặt
tên em là Riu, sao anh lại gọi em là Đạo?
-
Tên Riu,
không hay. Gọi là Đạo hay hơn.
-
Thế Riu là
gì?
-
Là cái riu
để bắt tép, bắt tôm,..
-
Thế Đạo là
gì?
-
Đạo là đạo
lý, là tôn giáo, còn có nghĩa là…ăn trộm, là chôm chỉa(2)!
-
Em khoái
cái tên Đạo hơn, vì em không mấy khi nói thật, lại thích chôm chỉa!
-
Ờ! Ở đời
biết mình là người thế nào cũng đáng nể lắm đấy!
-
Thật thế ạ?
-
Đúng vậy! Nhiều
kẻ chỉ muốn sống trong hư ảo, không thích cái gì rõ ràng cả.
-
Thế ra em
vẫn còn hơn một số người khác à?
-
Đúng thế!
-
Ở chỗ nào
cơ, anh nói rõ hơn đi!
-
Ở chỗ cậu
đểu, thích trí trá, mà biết là mình đểu, mình hay nói dối. Còn đa số những
người khác sống, đối xử thì thật đểu, thật tồi, nhưng luôn nghĩ rằng mình ăn ở
đàng hoàng, tốt đẹp. Có khi chính họ cũng không biết đó là dối trá nữa và rồi
mình tự huyễn hoặc mình, tự mình lừa dối mình. Họ là những người mắc chứng mộng
du.
-
Theo
anh thì nên sống thế nào? Đểu hay không đểu?
-
Cậu cứ
sống đúng với con người của cậu. Cậu sẽ cảm thấy thoải mái hơn. Có một ông
triết gia nào đó đã nói:
-
“Dám làm
các việc mình thích, đấy là tự do. Được yêu những việc mình làm, đấy là hạnh
phúc”!
***
Một hôm Đạo đến nhà tôi uống rượu, rồi nằm kềnh ra
ghế ngủ. Cúc áo tuột ra tôi thấy cổ nó đeo một cái thẻ như thẻ của phóng viên.
Lúc dậy, tôi hỏi thì nó tụt hẳn ra đưa tôi xem và khoe:
- Em làm cái thẻ này đeo vào cho nó “oách xà-lách”
anh ạ. Dọa khối thằng són đái ra quần đấy.
Tôi cầm xem kỹ cái thẻ thì thấy đó là cái thẻ ghi Ban
Thời Sự THVN BC191, đứng tên Trần Chích, còn cả ảnh chụp chân dung nó rất chững
chạc nữa.
Tôi hỏi:
-
Sao cậu
lại có cái thẻ này?
-
À em làm
theo thẻ của bọn Phóng viên Đài Truyền hình ấy mà!
-
Cậu có biết
thế là phạm pháp không?
- Đến trẻ con nó cũng
biết! Nhưng anh không hiểu được đâu. Trộm cắp hoặc lừa dối được người khác, nó
làm cho ta sung sướng lắm. Các cụ chẳng đã có thử nghiệm và kết luận là ăn vụng
vẫn ngon hơn ngồi ăn đàng hoàng đấy thôi. Hôm nọ đi quá tốc độ, nhờ có cái thẻ
này mà em không bị phạt đấy.
-
Nếu bị
phạt thì bị phạt bao nhiêu?
-
Từ năm
triệu đến sáu triệu đồng!
-
Sao nhiều
vậy?
-
Ô-tô mà!
-
Cậu cũng
có ô-tô à?
-
Sao anh lại lẩn thẩn thế. Của ai thì ảnh hưởng gì đến “Hòa bình thế giới”!
-
Vớ bẫm rồi
còn gì! Tôi khen.
- Vừa qua ngồi với đám đông bạn bè, em có nói thế
này:
- “Nạn đạo chích(3) bây giờ tràn lan khắp cả xã hội!
Cụ Trần Trọng Kim từng đã luận rất chính xác về dân tộc ta thế này”:
“Người An-nam ta vốn tính cần cù, nhưng có tật hay nói
dối và ăn cắp vặt”!
Lập tức có thằng đã nổi xung lên vặc lại:
-
“Thế bố mẹ
ông ấy không phải là người An-nam à”?
-
“Dù đó là
bố mẹ mình, mà là lưu manh thì không thể nói rằng bố mẹ mình là người thực thà
được”!
-
“Thế thì bọn
họ ở đâu chui ra”?
-
“Bố mẹ thì
mình phải quý hóa, nhưng không vì thế mà đen bảo thành trắng”!
-
“Thế thì
làm gì còn đạo lý nữa”!?
-
“Nếu coi
đó là đạo lý thì đó chỉ là đạo lý của bọn trẻ con”!
Tôi liền cắt ngang lời Đạo:
-
Cậu nghĩ
thế nào về đạo lý!
-
Đạo lý
chính là cái dám nhìn vào sự thật và nói đúng về nó!
-
Chính xác!
***
Thời gian cứ qua đi, giờ tôi đã già, xấp xỉ tám
mươi, lụ khà, lụ khụ, lẩm cẩm lắm rồi. Riu cũng đã về hưu tuy còn dăm năm nữa
mới đến sáu mươi.
Hôm nọ nó đưa khoe tôi cái sổ hưu, lương trên sáu
triệu tháng.
Tôi bảo:
-
Lương cậu
cao nhỉ?
-
Thế là
bình thường!
-
Tôi là kỹ
sư mà chỉ được bốn triệu…
-
Anh thắc
mắc sao lương hưu thằng thợ nguội mà lại hơn lương kỹ sư chứ gì?! Thế hóa ra
anh vẫn còn chậm hiểu quá!
-
…Đúng thế,
tôi vẫn chưa hiểu?!
-
Nếu cứ
theo đường thẳng thì em chưa được về hưu, mấy năm nữa về thì lương chỉ hơn hai
triệu!
-
Thế tức là
không theo đường thẳng?
-
Anh khôn
hơn một tí rồi đấy!
-
Thì ra
biết dối trá cũng có lợi thật!
-
Lại khôn
hơn tí nữa! Đạo nhận xét.
Hà Nội, 2016.
(1)
Týp: (tiếng Anh: type) loại, kiểu.
(2)
Chôm chỉa: Trộm cắp.
(3)
Đạo chích: Kẻ trộm, ăn cắp vặt.
tháng 11 01, 2017
tháng 10 31, 2017
Tò mò
Phòng thí
nghiệm Cơ học đất và Nền móng của trường Đại học Bách Khoa đã được thành lập từ
lâu lắm rồi. Qua nhiều năm, trang thiết bị sắm sanh cũng đã gần như đầy đủ mà toàn
là thứ được lựa chọn kỹ càng, đa phần là đứng đầu bảng, bởi dù sao đây cũng là
trường Đại học Khoa học Kỹ thuật lớn nhất miền Bắc lúc bấy giờ.
Công việc cũng
đã vào nề nếp, hằng ngày cứ tuần tự nhi tiến(1). Cụ thể là làm thí nghiệm cơ học
đất khi đội khoan đem mẫu đất đá từ hiện trường về. Khoan ép các mẫu đá, phân
tích, sắp xếp thành phần cấu tạo các loại hạt và vê giun(2) đối với đất dẻo.
Sau đó thí nghiệm ép, cắt(3) các loại vật liệu. Cuối cùng thống kê số liệu cấp
cho bên thiết kế công trình.
Phòng Thí
nghiệm gồm ba phòng nhỏ, chủ yếu đã để các máy móc gần chật kín cả. Cán bộ
chuyên môn thì có một trưởng phòng là nữ, tốt nghiệp Tiến sĩ bên Nga và bốn
nhân viên, hai trung cấp, đã lớn tuổi, hai nhân viên còn lại là công nhân trẻ.
Minh tốt nghiệp
loại giỏi của trường Đại học Mỏ, Địa chất Hà Nội, vừa được bổ sung về phòng làm
việc từ tháng sáu năm ngoái. Anh chàng này quê tận phía Bắc huyện Võ Nhai sát
với Nà Rì tỉnh Bắc Cạn. Tuổi mới hăm tư, hăm lăm, khỏe mạnh, ưa nhìn nhưng
nhút nhát và hơi ngô ngố.
Trưởng phòng Mỹ
Vân đã trên ba mươi, chưa lập gia đình. Cô là một cô gái khỏe mạnh và đặc biệt
rất bạo dạn. Là trưởng phòng, nên cô buộc phải gần gũi, kết thân với các nhân
viên khác. Ai cô cũng tỏ ra thân mật, nhưng chẳng hiểu vì sao mỗi lần phải làm
việc với Minh cô vẫn cảm thấy không được tự nhiên lắm.
Có những hôm,
vì phải làm nốt công việc nào đấy, trong phòng chỉ còn hai chị em ở lại khuya
khuya một chút, Vân thường lo từ miếng cơm, ngụm nước, cái khăn lau rất chu đáo
còn hơn cả mẹ ở nhà. Minh thì nghĩ chị Vân làm như vậy cũng là lẽ tự nhiên
thôi, nên cũng “cứ vô tư”. Ngược lại trong công việc thí nghiệm, khi chỉ có hai
chị em thì dù sao Minh cũng là đàn ông nên những việc nặng đều dành làm cả. Đôi
lần Minh cũng nhận thấy ánh mắt trìu mến “rất sâu”của chị Vân nhìn mình. Lúc
bấy giờ cậu ta cũng chỉ nghĩ là “bà chị” có tình cảm với “thằng em” cũng là
chuyện bình thường! Hai chị em “cùng chiến tuyến”, cùng làm một việc, thân nhau
thì có gì mà phải “lăn tăn” cơ chứ?!
Thời gian cứ
thế trôi đi, sự gần gũi làm cho tình cảm của cả hai người nẩy nở như một mầm
non giâm xuống mảnh đất luôn “được chăm chút” hằng ngày. Đối với Minh thì đó
cũng chỉ là điều tự nhiên như nó vốn phải thế, nhưng đối với Mỹ Vân thì nó
không bình thường chút nào cả, cô luôn cảm thấy rạo rực trong người.
***
Rồi cái gì phải
đến sẽ đến, giống như quy luật tất yếu của vạn vật. Sự tiến triển theo quy luật
ấy nó âm thầm nhưng dai dẳng và bởi vì nó đã “nằm trong quy luật” mất rồi.
Một hôm Minh
thấy trong cặp của mình có một quyển tạp chí Playboy(4) rất đẹp. Anh hỏi mọi
người xem có ai để nhầm vào cặp của mình không, nhưng không người nào nhận. Sau
đó, lúc rảnh rỗi Minh tò mò giở ra xem và đã đỏ mặt lên vì những hình ảnh phô
diễn rất gợi cảm, rất táo bạo của những người mẫu xinh đẹp phương Tây.
Mới đầu còn là
lạ, sau đó cứ như mặc nhiên và rồi Minh “nghiện xem” lúc nào không biết. Đôi
lúc còn đắm đuối ngắm đi, ngắm lại mãi không thôi. Lâu lâu không có bộ ảnh mới
nào, lại cứ như thấp thỏm mong mong.
Vào một buổi
tối như bao buổi tối bận rộn khác. Minh và chị Vân phải ở lại làm thêm giờ.
Cũng đã muộn rồi, sau khi hai chị em ăn nhẹ bữa tối thì đột nhiên chị Vân đưa
cho Minh một tập Playboy mới tinh.
Minh vồ lấy hồ
hởi:
- Thế hóa ra từ
trước tới giờ những quyển tạp chí này là của chị bỏ vào cặp của em à?
- Ừ, có thích
không?
- Thích, thích
lắm!
- ………..
- ………..
- Tội gì mà phải
xem đồ giả?
- Nhưng em đã có
vợ đâu, làm sao …!
- Thế có muốn xem
đồ thật không?
- Ở đâu ạ?
- Trong này! Vào
đây!
- ………..?!
Hai người dìu
nhau vào phòng trong kín đáo hơn. Chẳng biết trong căn phòng nhỏ ấy đã diễn ra
việc gì mà ở ngoài chỉ nghe thấy tiếng thở gấp gáp và những tiếng rên rỉ nho
nhỏ của hai người vọng ra.
Sau đó tự nhiên
người ta thấy hai chị em lại “siêng năng” hơn trước, thường xuyên “phải làm
thêm giờ” buổi tối.
Và rồi cái phải
đến đã đến!
Khoảng đến quá
nửa năm sau, khi cái bụng của Vân đã nổi lên không thể che giấu được nữa. Hai
người đành công khai quan hệ và cũng khoảng hai, ba tháng sau thì họ tổ chức
đám cưới.
Việc xảy ra
cũng theo lẽ tự nhiên thôi, chẳng thế thì nòi giống làm sao mà “kéo dài” mãi ra
được.
Mặc dầu cũng có
lời ra, tiếng vào một ít lâu nữa. Nhưng chẳng sao, chuyện nào ra chuyện nấy, mà
cũng có ai làm “ảnh hưởng đến hòa bình thế giới” đâu mà sợ!?
Hà Nội, 2017.
(1) Tuần tự nhi tiến: Tiến
hành đúng trình tự công việc.
(2) Vê giun: Vê đất dẻo
thành hình con giun trong các thí nghiệm.
(3) Ép, cắt: Các phương pháp
thí nghiệm vật liêu xây dựng.
(4) Tạp chí Playboy: Playboy là một tạp chí dành cho đàn ông của Mỹ được thành lập ở Chicago, Illinois bởi Hugh Hefner. Nó sử dụng hình ảnh khỏa thân trang nhã
hấp dẫn và mang tính nghệ thuật ở trang bìa nhằm thu hút độc giả.
tháng 10 27, 2017
Bắc Kế
Tốt nghiệp Bách khoa tôi được Viện Thiết
Kế Bộ Giao thông lấy về làm việc năm 1965, đúng vào dịp chiến dịch “đánh hạn
chế” của máy bay Mỹ vào Miền Bắc. Tháng sáu năm 1966, Mỹ bắt đầu ném bom Hà
Nội, Hải Phòng, thì khoảng tháng tám năm ấy, cơ quan Viện sơ tán về làng Bắc
Kế, Hương Canh, An Lãng, tỉnh Vĩnh Phúc.
Muốn đến Bắc Kế thì đi tàu hỏa xuống ga
Hương Canh rồi bồng bế nhau vào. Cũng phải hơn bốn cây số đường đất rộng chạy ô-tô
được, chỉ có gần cây số nữa là phải đi bộ.
Bắc Kế là một thôn nhỏ, thuần nông chỉ
trông vào trồng cấy, nghèo nàn, dân cư thưa thớt. Trong làng chủ yếu là nhà tranh
vách đất, có nhà tường lại được xây bằng các phế liệu của gốm Hương Canh như
vại, hũ, lu và cả tiểu sành nữa. Vữa xây chỉ là bùn, họa hoằn lắm mới được trộn
thêm ít vôi. Có dăm nhà khá giả hơn thì tường được xây bằng gạch đá ong. Đường
làng nhỏ hẹp, lồi lõm, mưa xuống thì lầy lội, lõng bõng nước và phân trâu bò
bẩn thỉu. Đi lại rất ngại.
Phụ nữ và trẻ em gái đa phần đi đất, mặc
mấn(1) và chưa biết đến đồ lót là gì!
Do đời sống trong làng lạc hậu nên kiêng
cữ ngặt lắm.
Còn nhớ ông Trung tiến sĩ, giáo sư trường
Đại học Bách Khoa Hà Nội thỉnh thoảng ghé vào thăm vợ là chị Vi, kỹ sư Phòng
Cầu, mà đến vào buổi chiều thì phải ngồi ngoài hè cả đêm đợi giời sáng. Hôm sau
còn ở lại chơi, thì nhà chủ sẽ để một người nghỉ làm đồng ngồi nhà trông chừng.
Phòng làm việc của Phòng Cầu được đặt ở
nhà ông Quang tận cuối làng (phong tục ở đây chủ nhà được gọi bằng tên con
giai, dù còn nhỏ như thằng Quang mới chín tuổi). Nhà này xây gạch đá ong thoáng
rộng, kê thêm được ba, bốn cái bàn làm việc và cái phản nhỏ để tôi nằm ngủ sát
góc nhà.
Ông Quang là một người đàn ông cao to, trạc
trên bốn mươi, là tổ trưởng tổ rau của Hợp Tác Xã, nên thu nhập có khá hơn các
hộ khác chỉ làm lúa. Vợ cả ông đã qua đời đã lâu. Bà này là bà hai, sinh được hai
bé gái rồi đến thằng Quang. Đặc biệt ông Quang thích nấu rượu, mà hồi đó nhà
nước gọi là rượu lậu, còn cấm ngặt lắm, vì thế cứ đến đêm ông mới dám “hành sự”.
Được mẻ đầu, bao giờ ông cũng đánh thức
tôi dậy để nếm. Hai người đàn ông, nửa lít rượu, một nắm rau cần nhà trồng,
được ông xào rất khéo với nửa lạng thịt trâu, rau vừa chín tới, thịt vẫn còn
mềm, thơm nức mùi hành, tỏi, đặt vào môi là trôi vào cổ. Những lúc được ngồi
nhâm nhi như thế trong căn bếp nhỏ, bên chén rượu ngon, chút đồ ăn hợp vị, tôi cho
rằng để bay bổng lên chín tầng mây cũng chẳng khó khăn, tốn kém là bao. Đâu có ghê
gớm như người ta thường bàn tán!
Ở lâu lâu, tôi được ông Quang quý hóa,
coi như người thân trong nhà. Nhớ nhất là cái tết năm ấy, do được nghỉ dài
ngày, mọi người đều về cả, tới mồng năm mới phải đi làm. Trở lại làm việc, tôi
được ông Quang để dành cho một bát tiết canh làm từ hôm ba mươi tết trên ban
thờ nhỏ sát tường.
Mới trông thấy bát tiết canh tôi đã sợ
toát mồ hôi hột, nói dối rằng từ bé chưa từng ăn được tiết canh, lại nói rằng
ăn tiết canh sẽ bị dị ứng, nhưng không thể từ chối lòng yêu mến của ông chủ nhà
tốt bụng “một cách không thể từ chối được”. Ông cứ ép đi, ép lại mãi, đến lúc
biết không ăn, không được, tôi đành làm một ngụm rượu rõ lớn rồi nhắm mắt, nuốt
lấy được bát tiết canh. Thực ra thường ngày, tiết canh là “món khoái khẩu” của
tôi, nhưng “nuốt trôi” được bát tiết canh đã để từ sáu ngày trước thì quả thật
là “phi phàm”. May mà không xảy ra chuyện gì. Sau hôm đó cái bất ngờ lớn nhất là
ông Quang nhất định nhận tôi làm “anh em kết nghĩa”!
Thế rồi cũng phải “trình làng” với mấy anh
em cùng phòng một bữa túy lúy.
Tuy là làng nghèo, nhưng phong cảnh lại
rất đẹp. Cạnh làng là một khu vườn rộng trồng khuynh diệp và sau đó làng để cơ
quan làm nhà cho cán bộ công nhân viên ngay trong khu vườn đó.
Cạnh làng có một dòng suối nhỏ trong vắt
uốn éo chảy qua, chỗ sâu nhất cũng chỉ hơn một mét, nơi hằng đêm bọn tôi lôi
nhau ra tắm táp, nô nghịch thỏa thích, kể cả những đêm lạnh nhất giữa mùa đông.
Bây giờ nhớ lại thì lại bảo nhau rằng mùa đông năm ấy không lạnh lắm, nhưng ai
cũng hiểu rằng mọi người lúc ấy còn trẻ, còn rất trẻ, mà cái sức nóng của tuổi
trẻ đã coi cái giá lạnh của mùa đông không là gì!
Làng có một cái trại nhỏ ngay gần đó
trồng rau gọi là Trại Cúc. Đi bộ mất dăm phút là tới. Bên trại này có vỡ ít đất
màu trồng rau, chủ yếu là rau cúc, cũng chỉ có dăm ngôi nhà tranh nho nhỏ.
Sau do chật chội, cơ quan chuyển một số
phòng sang bên Trại Cúc làm việc. Tất nhiên mấy phòng chính, phòng lớn và bếp
ăn tập thể vẫn phải để bên Bắc Kế.
***
Hai năm sau khoảng năm 1968, tôi được Viện
cử đi dạy lớp nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ tại chức tận Quế Võ, thuộc Hải
Dương, cách Hà Nội khoảng bảy, tám mươi cây số, cách Bắc Kế cũng cỡ trăm cây.
Mấy năm sơ tán về cái làng nhỏ bé này,
tôi đã có bạn gái. Đó là một cô nhân viên phòng Can In, quê tận Hà Nam. Cứ chủ
nhật tôi đạp xe từ Quế Võ về Bắc Kế với cô bạn gái quê mùa của mình. Có lần
trên đường gặp mẻ cá ngon, tôi mua rồi treo lên ghi-đông(2) xe đạp. Tới nơi mới
biết bạn đã về Hà Nội họp Đoàn. Thế là tôi lại đạp xe về Hà Nội. Đến Hà Nội mới
biết cuộc họp đã kết thúc mấy tiếng trước, cô ấy đang trên đường lên Bắc Kế. Lại
đạp xe ngược lên Bắc Kế… Tính ra ngày hôm đó tôi đã đạp xe trên hai trăm cây số
như một cua-rơ(3) đường dài chuyên nghiệp! Mẻ cá tươi trên ghi đông xe đã khô
quắt, thành mẻ cá khô!
Bây giờ lắm lúc tự hỏi chả biết hồi ấy
lấy đâu ra nhiều sức lực thế? Có lẽ là nhiệt tình, nhưng có lẽ là tuổi trẻ
thì đúng hơn! Chứ như bây giờ thì chỉ cần đi lại dăm cây số thôi là lập tức
“đầu hàng vô điều kiện”!
***
Trong thời kỳ sơ tán về đây đã xảy ra một
việc cực kỳ lạ lùng. Phòng Y Tế cơ quan có ba, bốn người, ông Linh Y sỹ là
trưởng phòng. Ông là một người chững chạc, được đào tạo trường lớp tử tế, giỏi
nghiệp vụ và có uy tín trong cơ quan lúc bấy giờ. Tất nhiên ông phải là Đảng
viên rồi.
Bỗng mấy ngày liền ông bị sốt cao đến mê
sảng, luôn mồm cầu xin ai đó đừng giết mình.
Không ăn uống chút gì và luôn mồm lẩm
bẩm:
- Xin tha cho tôi. Tôi còn vợ con và cả
mẹ già đã trên tám mươi. Xin hãy buông tha cho tôi!
Những ngày ấy người trong phòng Y tế không
ai làm gì được việc gì, cứ phải phân công nhau chăm sóc, trông chừng ông. Sau
thấy không thuyên giảm, họ bàn nhau phải đưa ông Linh về Hà Nội chữa trị.
Đùng một cái, ông Linh biến mất. Sáng ra
không thấy đâu.
Tìm khắp nơi chẳng ăn thua gì, chả lẽ cơ
quan lại phải đi báo Công an để tìm người ốm mất tích!?
Tối ấy, sau giờ làm việc, bọn tôi kéo
nhau ra suối tắm như thường lệ, thì một cậu quờ phải một người nào đó nằm dưới
đáy.
Vớt lên thì là ông Linh.
Ai cũng cho là ông sốt mê sảng đã mò mẫm
ra suối tắm, chẳng may sẩy chân chết
đuối.
Cơ quan làm thủ tục rồi cử người về quê
đón gia đình ông lên để làm lễ mai táng. Ai cũng bùi ngùi và cảm thông với gia
đình người xấu số.
Việc ấy rồi cũng đã dần dần chìm xuống.
Nhưng bốn, năm ngày sau đó, bỗng
thấy một xe Com-măng-ca(4) chở năm, sáu đồng chí Công an đến làm việc với lãnh
đạo.
Người ta cho khai quật mộ ông Linh lên để
xét nghiệm. Thời kỳ này cơ quan bận nhiều việc lắm, ngày đêm phải “vắt chân lên
cổ” để thiết kế đảm bảo giao thông do giặc đánh phá chủ yếu vào cầu đường.
Nhưng điều quan trọng hơn cả là phong tục
tập quán ở địa phương coi việc đào mồ lên là việc rất kiêng kỵ, chưa từng xảy
ra bao giờ.
Nhưng lúc bấy giờ Công an với Bộ đội muốn
làm gì mà chả được!
Là nhân viên mới của cơ quan, nên suốt từ
sáng sớm tôi đã phải vác súng đứng gác cho kíp(5) mổ. Cũng chẳng biết làm thế
nào, cơ quan đã giao việc, thì cái gì mà chả phải chấp hành.
Dù đã khôn lỏi, đốt mấy nắm hương thật
to, căm tứ tung quanh vị trí giải phẫu và chọn đứng phía đầu gió, nhưng xác đã
ngâm nước hai ngày lại chôn xuống đất dăm ngày nữa, nên đã phân hủy sâu. Mùi
hôi thối nồng nặc, bốc ra xung quanh hàng dăm chục mét, một mùi hôi thối thật
khủng khiếp, không thể tả được mà từ bé tôi chưa “được thưởng thức” bao giờ.
Bữa trưa đó nhà bếp nấu cơm đặc biệt để
bồi dưỡng cho mấy thằng gác xác mà không thằng nào nuốt được, mặc dù trông thấy
cái ăn ngon cũng thèm lắm.
Lúc đó tôi đứng ngay cạnh viên sĩ quan
phụ trách kíp mổ. Anh ta vừa quan sát vừa đọc cho một cô cảnh sát trẻ ghi chép
biên bản. Dù đã tốt nghiệp ngành công an mà cô này cũng nôn thốc, nôn tháo ba,
bốn bận, ra cả mật xanh, mật vàng trông rất tội nghiệp. Lúc ấy tôi cũng còn
trẻ, mới hai sáu, hai bảy, tai còn thính lắm nên nghe gần như trọn vẹn biên bản ghi về cái chết của ông Linh.
Thì ra ông ta bị giết, chứ không phải
chết đuối như mọi người đã đoán lúc trước. Kết hợp với những lời van xin tha
mạng thốt ra lời của ông trước khi bị giết thì đến chín chín phần trăm đúng là
án mạng!
Nhưng vì sao ông Y sỹ Linh lại bị giết?
Ai đã giết ông, để làm gì? Không ai biết thực hư. Hỏi ai bây giờ? Mà ai người
ta nói cho mình biết. Thế là mười đồn trăm, trăm đồn nghìn. Người nào cũng tự
tưởng tượng ra một câu chuyện mà mình cho là hợp lý, rồi kể lại với người khác y
như mình đã “tận mắt thấy, tai nghe” vậy.
Chỉ biết lãnh đạo cơ quan lại thì thầm ra
lệnh cho kíp gác xác là ban đêm không được đi đâu ra ngoài một mình, có việc
buộc phải ra ngoài thì phải đi vài ba người cầm đèn đuốc đàng hoàng.
Tôi lại còn được cơ quan phát cho một
khẩu súng trường cổ của Pháp mà có lẽ nó được sản xuất từ lúc Nã-phá-luân(6)
còn cởi chuồng! Đồng thời cử thêm anh Trần Hải một cán bộ Miền Nam tập kết, to
con đến ngủ chung cho chắc! Nhưng sau đó anh ta “nêu lý do” là có một số việc
đang làm dở(!) không sang ngủ chung được. Có lẽ thằng cha này sợ “đầu chả phải,
phải tai”, nên đã viện cớ từ chối khéo!
Cũng có lẽ do mọi người đã thần hồn, nát
thần tính(7), người này dọa người kia, hoặc tự mình dọa mình, thành ra không khí
trong làng, ngoài ngõ cứ căng lên như dây đàn đã được lên dây hết cỡ.
Tôi nghĩ rằng khẩu súng cổ không có đạn
này thì có tác dụng gì, nên không nhận. Nhưng lệnh là lệnh, cứ phải cầm lấy,
lại còn phải ký nhận vào sổ nữa chứ. Biết chuyện này ông Quang nằng nặc bắt tôi gối
đầu giường một con dao phay to rất sắc. Tôi đành chiều ông vậy. Tối ấy trước
khi ngủ tôi đã cố tình để ghế lung tung, nếu không quen vào nhà tối mò mò thế
này, thế nào cũng xô đổ ghế, phát ra tiếng động.
Tôi đã ngủ được một giấc thì nghe thấy
tiếng kẹt cửa nho nhỏ. Từ nhỏ tai đã thính như tai chó, nên tôi thức dậy ngay. Thầm
hỏi sao chó trong nhà lại không sủa?! Như vậy đây là người quen rồi! Mở mắt
nhìn mờ mờ trong tối thì thấy một bóng đen to lớn đang len qua các hàng ghế rất
khéo léo mò vào phía giường tôi nằm không một tiếng động. Tôi hoảng sợ thật sự nghĩ
rằng những điều cơ quan đã cảnh báo phải đề phòng là không thừa.
Tôi nhẹ nhàng, ngồi dậy phía cuối giường thủ
thế, tay cầm chắc con phay giơ lên sẵn sàng bổ xuống kẻ “đột nhập nguy hiểm”
kia!
Bóng đen nhẹ nhàng kéo màn phía đầu
giường. Đích thị nó muốn chẹt cổ mình đây mà! Không thể chần chừ được nữa!
Tuy nhiên từ bé tôi chưa chém ai bao giờ
thành ra cứ đắn đo nửa “hạ thủ”, nửa không. Cuối cùng sợ hãi quá tôi đã hét tướng
lên trong đêm vắng:
-
Ai?
Ai???
-
Tôi
đây, tôi đây, Hải, Hải đây!!!
Thì ra là anh Hải. Tiếng hét của tôi đã
làm cho vợ chồng ông Quang bật cả dậy. Đèn được thắp lên hai, ba cái, sáng
trưng. Tôi vẫn giơ con dao mà người run lên bần bật.
Tôi sẵng giọng, hỏi:
-
Có
việc gì mà giờ này anh lại sang phòng làm việc thế?
-
Mai
mình có việc về Hà Nội sớm, sợ không báo kịp cho cậu.
-
Sao
không gọi hay lên tiếng. Nếu tôi bổ một nhát vào đầu thì anh sẽ ra sao hở?
-
Mình
lên tiếng, sợ mọi người mất ngủ! Cũng may mà cậu chưa bổ…
-
Anh
làm thế này thì mọi người ngủ được à?
-
Ừ,
mình sơ ý quá! Mình xin lỗi!
Về sau hỏi lại thì chẳng phải chỉ mình
tôi run đâu, mà vợ chồng ông Quang ngủ trong buồng cũng còn run đến sáng!
Chuyện ấy rồi cũng dần chìm xuống, nhưng
nó lại biến tướng thành một câu chuyện khác hẳn:
- “Anh Trần Hải nửa đêm mò vào chỗ ngủ
của tôi. Bị bắn một phát đạn văng mất “bìu khiu” phải đưa về Hà Nội cấp cứu
ngay đêm đó”.
Mọi người không ai dám hỏi han gì, nhưng
cứ lấm lét nhìn tôi dò xét.
Mãi sau có một cô cấp dưỡng bạo miệng nhất ở cơ
quan rụt rè hỏi:
-
Em
hỏi khí không phải, hôm nọ có phải anh đã bắn văng mất của anh Hải…
-
Cho
chết, ai bảo nửa đêm mò vào giường tôi định…
-
Định
làm gì hở anh???
-
Còn định
làm gì nữa!?
-
Eo
ơi! Sao lại ghê thế nhỉ??? Nhưng mà anh Hải định làm gì hở anh???
-
Làm,
làm cái con khỉ. Cô chưa biết chuyện gì mà đã eo ơi hả? Nếu có chuyện nổ súng
trong đêm thì mọi người phải nghe thấy chứ! Thế đêm qua cô có nghe thấy tiếng
nổ nào không?
-
Không!
Em tưởng em ngủ say không nghe thấy. Thế anh Hải không sao chứ ạ?
-
Súng
có đạn đâu mà nổ! Anh Hải vẫn còn nguyên vẹn, được chưa nào!? Mà này sao cô lại
quan tâm đến anh Hải nhiều thế?
-
Bao
giờ? Em thèm vào quan tâm đến anh ấy!
-
Nhưng
nếu tôi bắn văng …của anh Hải thì cô có bắt tôi đền không?
-
Phải
gió cái nhà anh này nữa! Nói xong cô ta bịt mồm lại cười khinh khích rồi lúc
lắc chạy đi.
Cái mông cứ ngoáy đi, ngoáy lại trông
thật là ngoạn mục.
Hà Nội, 2017.
(1) Mấn: cái váy (từ cổ)
(2) Ghi đông: (Guidon: tiếng
Pháp): tay lái, ghi-đông xe đạp
(3) Cua-rơ: (tiếng Pháp:
Coureur): Vận động viên đua xe đạp
(4) Com-măng-ca: (tiếng Anh:
Command-car) - xe dã chiến quân sự loại nhỏ.
(5) Ê-kíp: (Équipe: tiếng Pháp)
nhóm người cùng làm chung một nhiệm vụ với nhau.
(6) Nã-phá-luân: Napoléon
Bonaparte (15-08-1769 mất 05- 05- 1821): Hoàng đế Pháp vĩ đại nhất. Được mọi
người tôn vinh là Hoàng đế của các Hoàng đế.
(7) Thần hồn nát thần tính:
nỗi lo sợ quá cao làm mình hoảng hốt tăng lên.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)