tháng 9 21, 2023
DÒNG SỮA - Truyện ngắn
Khoảng cuối 2018, hôm ấy có viêc ra đồn Công An phường để xin cái giấy
chứng nhận, tôi gặp một cậu thanh niên đang bị giữ tại đấy, vì giao hàng đi vào
đường ngược chiều.
Nhìn thấy tôi, anh ta nhanh nhảu hỏi:
- Chào ông. Ông không nhận ra cháu à?
- Chào anh. Anh là ai thế?
- Cháu là Bá đây!
- Bá nào nhỉ?
- Bá ở Đội II Thi hành án thuộc Cục Thi hành án, có họ xa với ông đấy!
- Chuyển ngành à? Đang làm việc nhẹ lương cao sao lại xin ra quân thế?
- Sau lần phải bắn một cô gái năm trước. Cháu không chịu được, đã xin ra
khỏi ngành.
- Anh đã bắn bao nhiêu người rồi, sao đến cô này lại quyết định bỏ nghề?
- Cháu không nhớ xuể. Nhưng cũng phải đến hơn chục người.
- Cô ta xinh quá hay sao mà lại làm anh rẽ ngang như thế?
- Cô ấy còn rất trẻ lắm, mới chỉ hăm hai tuổi, lại là mẹ đơn thân đang nuôi
con nhỏ.
Trước khi bị bắn, cô ta xin phép Đội cho con bú lần cuối. Thằng bé còn bé lắm,
vừa bú vừa nghịch vú mẹ. Cô ta tốt sữa nên sữa về tràn trề, con bú không xuể,
sữa thấm ra ướt đầm cả vạt áo kẻ sọc.
Một lúc sau đã no, thằng bé nhả vú ra rồi ôm lấy cổ mẹ, gà gà ngủ.
Mẹ thì khóc ròng, con lại trong sáng như một thiên thần, ai thấy cũng xót
xa.
Lúc sau khi mấy viên đạn xuyên vào ngực, đầu cô ta gục xuống. Máu xối xả trào
ra lẫn với dòng sữa làm cái áo tù ướt xũng.
Chứng kiến cảnh đó, lúc bế thằng bé và cả cốc sữa nhỏ mẹ nó đã nặn ra để lại,
trao cho người nhà tội nhân, cháu không biết mình đã nói những gì.
Nhưng trong lòng thì đã quyết là bỏ nghề, dù có phải đi ăn trộm để sống.
Hà Nội, 2023.
CHUYỆN VỀ LỄ THANH MINH - Truyên ngắn
Đúng lúc cuộc cãi vã đến đoạn căng thẳng nhất giữa tôi và chú em về việc tổ
chúc cho cả nhà đi Thanh minh, tức là thắp hương cho mồ mà tổ tiên hằng năm,
thì ông bạn thân của tôi đến chơi.
Ông là giáo sư khao học của một trường Đại học danh tiếng nhất nhì Anh
quốc, trường Cambridge. Ông không những giỏi về chuyên ngành ông nghiên cứu:
ngành khoa học vũ trụ, mà các lĩnh vực khác ông cũng rất uyên thâm.
Sau chào hỏi, pha nước mời khách, chúng tôi lại quay lại đề tài cũ. Chú em
tôi nhân có khách thì cũng tranh thủ phân trần:
- Bác Tạc nói xem có phải từ xưa các cụ đã dạy là thanh minh trong tiết
tháng ba không? Thế mà ông anh em lại nói chưa đúng, chưa phải là thế nào?!
- Thế ông Kha thì nói sao? Ông quay lại hỏi tôi.
- Câu thanh minh trong tiết tháng ba là câu trích trong truyện Kiều, chứ
không phải câu của các cụ dặn!
- Câu trích trong truyện Kiều của đại văn hào Nguyễn Du cũng là chuẩn lắm
rồi, còn phải xem xét lại gì nũa!
- Chú nói chỉ đúng có một phần, chứ không chuẩn hẳn!
- Bác nói có cái gì chưa chuẩn? Ông bạn tôi hỏi lại.
- Các tình tiết trong truyện Kiều, đều là của Tàu, thuộc về Tàu từ hơi thở
đến nội dung, hãy đọc hai câu trong Kiều:
Rằng năm Gia Tĩnh
triều Minh, (câu 9)
Bốn phương phẳng
lặng, hai kinh vững vàng. (câu 10)
Việt Nam ta làm gì có triều Minh? Hai kinh là Bắc kinh, Nam kinh ở bên Tàu,
chứ có phải ở ta đâu?
Do thời tiết bên Tàu rất lạnh, mùa Đông và mùa Xuân tuyết phủ dầy khắp nơi,
nên mới phải đợi đến tháng ba tuyết tan mới dọn dẹp và quét tước mộ phần được.
Vì thế nên trong Kiều mới có câu:
Thanh minh trong tiết
tháng ba, (câu 43)
Lễ là tảo mộ, hội là Đạp
thanh. (câu 44)
Vì thế, nếu rập khuôn theo truyện Kiều của Tàu thì lúc đó thời tiết bên ta,
tháng Ba đã sang đầu hè rồi, trời bắt đầu nóng rồi, đi tảo mộ là không thích
hợp nữa.
- Vậy theo ông thì tảo mộ vào lúc nào là hợp? Ông bạn tôi vừa cười vừa hỏi.
- Rất nhiều người Việt Nam ta thường giáp tết lên quét dọn mộ phần rồi làm
lễ mời người thân đã khuất về sum họp, ăn tết với gia đình, con cháu là hợp nhất,
hợp lý nhất, Việt Nam nhất.
- Thế bác Kha cháu nói thế, có đúng không ạ? Chú em tôi hỏi lại ông bạn uyên
bác của tôi.
- Bác Kha nói thế là đúng đấy, có lý đấy. Ta nên theo cái tập tục của ta,
chứ sao lại đi lệ thuộc vào một câu chuyện của Tàu, ở bên Tàu.
Cuối cùng theo tôi biết thì truyện Kiều, không phải là sáng tác của cụ
Nguyễn Du. Cụ Nguyễn Du chỉ là người biên dịch truyện Đoạn trường Tân thanh truyện
của Thanh Tâm Tài Nhân (người Tàu) từ văn xuôi chữ Hán sang tiếng Việt theo thể
thơ lục bát. Mặc dầu cụ Nguyễn Du là người rất giỏi, rất tài năng, biên dịch
rất hay, thậm chí bản biên dịch của cụ còn hay hơn nguyên bản.
Và cũng bởi cụ Nguyễn Du không thể sinh vào thời nhà Minh và là đồng bào
cùng thời với Mã Giám Sinh, với Thúc Sinh và Từ Hải,... được.
Ông em tôi đã bảy mươi nói vội như đã hiểu ra vấn đề.
- Nếu các bác nói rõ ràng ngọn ngành ngay từ đầu, thì em cãi các bác làm
gì!
Hà
Nội, 2023.
Một số suy ngẫm
về “Kiều Việt” và “Kiều Tàu”!
Tản mạn – Hoài Nguyễn
***
Trong nền văn học Việt Nam, có lẽ ai cũng từng đọc qua hoặc nghêu ngao vài
câu lục bát trong “Truyện Kiều” của Đại thi hào Nguyễn Du và có khi cũng nghĩ
đó là một câu chuyện “thuần Việt”!
Thực ra thì cụ Tố Như – Tiên Điền đã “vay mượn” hầu như toàn bộ một truyện
thuộc thể tiểu thuyết chương hồi tận bên Tàu – đó là tác phẩm “Kim Vân Kiều
truyện” (Đoạn trường tân thanh) của Thanh Tâm Tài Nhân, một tác giả đời nhà
Minh viết khoảng đầu thế kỷ XVII.
Cái tuyệt vời của cụ Nguyễn Du là từ câu chuyện văn xuôi bằng chữ Hán, ông
đã chuyển thể thành truyện thơ viết theo thể lục bát chữ Nôm, và từ đó “Truyện
Kiều” đã đi vào tâm hồn người Việt hơn ba trăm năm…
Thanh Tâm Tài Nhân, tên thật là Từ Văn Trường, tức Từ Vị, còn có một số bút
danh khác là Thiện Tri, Thanh đằng, Điền Thủy Nguyệt. Theo nhiều tư liệu, sử
sách chép ông sinh năm 1521, mất năm 1593, đương thời với ca kỹ tên Vương Thúy
Kiều và thủ lĩnh cướp biển Từ Hải. Ông quê ở huyện Sơn Âm, tỉnh Chiết Giang,
học giỏi, hiểu biết rộng, nhưng đi thi không đỗ, bèn làm mặc khách của Hồ Tông
Hiến.
Sinh thời, đã có lần Thanh Tâm Tài Nhân thảo tờ biểu “Dâng hươu trắng” cho
vua nên trở thành nổi tiếng.
Các tư liệu cho biết Thanh Tâm Tài Nhân đã dựa vào bản ghi chép tay của Mao
Khôn (1512 - 1601) ghi chép lại trong cuốn sách Kỷ tiễu trừ Từ Hải bản mạt, vì
Mao Khôn đã từng phục vụ trong quân ngũ của Hồ Tôn Hiến và ghi chép lại sự việc
như một trang kỷ yếu ghi chép thời giao tranh để hư cấu thêm thắt các nhân vật
và viết thành thể loại tiểu thuyết cổ điển chương hồi.
Bản của Mao Khôn chép:
“Vương Thúy Kiều là kỹ nữ Lâm Tri, đầu tiên là Kiều Nhi, giỏi hát lối mới,
thạo hồ cầm. Sau tìm cách trốn khỏi nhà xướng ca, đổi tên ở bên bờ biển. Nụy
khấu đánh Giang Nam, bắt Thúy Kiều mang đi rồi trở thành áp trại phu nhân của
Từ Hải. Từ Hải rất yêu quý nàng, mọi kế hoạch đều nghe theo nàng. Quan quân
phái người đến chiêu hàng, Kiều đem nhiều việc đến khuyên, Hải mới quyết tâm
hàng. Quan quân bố trí kế hoạch, Từ Hải thua chết, Thúy Kiều cũng bị quan quân
cướp. Sau khi bị Đốc phủ làm ô nhục, Kiều bị gả cho tù trưởng Vĩnh Thuận làm
thiếp. Trên đường qua sông Tiền Đường, Thúy Kiều than: Minh Sơn hậu đãi ta, ta
vì việc nước dụ chàng mà bị hại. Giết một người chồng rồi lại lấy một người
chồng, còn mặt mũi nào sống nữa! Bèn nhảy xuống sông mà chết.”
Thanh Tâm Tài Nhân cũng thêm thắt từ một vài nguồn khác khi miêu tả “Thúy
Kiều thành một người đẹp đa tài, trang nhã, đáng kính, đáng yêu nhưng bạc
mệnh…” miêu tả “Từ Hải là một người có chí lớn, hảo sảng, một đại trượng phu có
phong vận, là anh hùng tuy bị lừa nhưng vẫn chiến đấu quyết liệt….” rồi viết
thành tiểu thuyết có 20 hồi… Cứ hết một hồi thì … “ xem tiếp hồi sau sẽ rõ” (Ai
từng xem truyện Tàu thì ắt biết câu cuối hồi này!)
Kết cấu của tác phẩm “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân được miêu
tả theo tuyến tính thời gian, trình tự diễn biến của sự kiện và quá trình hành
động của nhân vật chính. Tác phẩm kèm nhiều lời bình giảng, giáo huấn đạo lý;
bên cạnh đó là việc sử dụng rất nhiều điển tích, điển cố, nhân vật Thúy Kiều
gặp cảnh ngộ vui buồn, éo le đều thường làm thơ, tứ, kệ, hoạ đàn… nhân đó mà
bày tỏ tâm trạng, tình cảm của mình khiến cho văn chương trong Kim Vân Kiều
càng đậm nét cổ.
Truyện Tàu “Kim Vân Kiều” này tôi đọc từ thời tiểu học, lâu lắm rồi, cùng
thời với Phong Thần, Đông Chu Liệt Quốc, Tây Du ký, Tam Quốc chí, Thủy Hử…và
cũng chỉ nhớ cái cốt chuyện chứ không mấy nhớ chi tiết!
Tuy vậy, mới đây nhân viết bài thơ “Kiều khúc”, tìm thấy lại cái truyện
“Kim Vân Kiều” nên đọc lại xem sao thì ngẫm ra “Kiều Việt” của cụ Nguyễn Du
đúng là “nhân từ ” hơn hẳn cái nàng “Kiều Tàu” của cụ Thanh Tâm Tài Nhân bên ấy
nhiều quá!
Cụ Nguyễn Du khi “chuyển thể” cốt truyện Kim Vân Kiều của Tàu thành “Đoạn
trường tân thanh” của người Việt theo tôi, cụ Tiên Điền muốn mượn “hồn Kiều” mà
trải nỗi lòng của cụ!
Cụ Nguyễn Du (1766-1820) sinh ra, trưởng thành sống mấy đời từ thời Lê mạt,
Trịnh Nguyễn phân tranh, Tây Sơn khởi binh rồi Triều Nguyễn khởi nghiệp đã
chứng kiến biết bao cảnh loạn lạc, nhiễu nhương, bể dâu…
Mang một tâm trạng hoài cổ từ thời còn cha ông sống trong nhung lụa đến khi
sa cơ thất thế lưu lạc cõi trần ai, Nguyễn Du thấy cảm thương thân phận của
nàng Kiều bên Tàu, vốn dĩ cũng chỉ là một ả gái điếm, ca kỹ có chút tài sắc,
lọt vào mắt xanh của tên cướp biển Từ Hải vốn là sư Minh Sơn bỏ chùa đi giang
hồ!
Gửi gắm tâm trạng của mình và nàng “Kiều Tàu”, với ngòi bút sắc sảo tài hoa
và tâm hồn Việt, cụ Nguyễn đã “thuần hóa” nàng ca kỹ mà nếu ai đã đọc “Kim Vân
Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân miêu trả trong tiểu thuyết chương hồi này
thì rất khác biệt!
Đương nhiên ta hiểu khi chuyển thể từ văn xuôi thành thơ thì cụ Nguyễn Du
hết sức chắt lọc, cô đọng cho ngôn ngữ súc tích mà người đọc vẫn vẫn hiểu ý tứ.
Còn văn xuôi đương nhiên với ngôn ngữ đối thoại thì có vè “trần trụi” hơn là
điều không tránh khỏi!
Những tên nhân vật trong “Kim Vân Kiều truyện” hầu hết được Nguyễn Du giữ
nguyên, có điều điều chỉ biến đổi một ít…
Chẳng hạn như bọn mối lái Chung Sự, mụ Hàm thì chỉ nói chung chung là bọn
“dẫn mối”. Còn Người họ Mã vốn tên là Mã Quy thì chuyển luôn thành Mã Giám sinh
vì tên này vốn là chân giám sinh, kết thân với mụ đầu tên là Mã Tú, trước kia
cũng trong làng son phấn, nay đã hết duyên gọi là Tú bà. Nhân dịp một người gái
đĩ tòng lương được món tiền chuộc mình là ba trăm lạng, tự mình lại góp thêm
hai trăm lạng nữa để Mã Quy vào Kinh mua người nên giả vờ đóng kịch hỏi Kiều về
làm vợ và phỗng tay trên “gái trinh” mà mụ Mã Tú giao hẹn với giá năm trăm lạng
bạc mà thực chất Mã Quy “ăn chặn” bớt năm chục lạng.
Đoạn này Nguyễn Du miêu tả:
“Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá, vâng
ngoài bốn trăm…”
(Nói thêm: Lâu nay các GV dạy Văn cứ đinh ninh dạy cho HS - Giờ lâu ngã giá
vàng ngoài bốn trăm là không đúng với nguyên bản chữ Nôm khi chuyển chữ Quốc
ngữ. Thời ấy bên Tàu người ta mua bán bằng bạc chứ không phải bằng vàng. Còn
“Vâng” tức là sau khi “cò kè…” thì Mã Giám sinh định “ăn chặn” nhiều hơn nhưng
phía nhà Thúy Kiều “đòi thách cưới” cao hơn cho xứng với con gái mình nên Mã
Giám sinh mới mới “thuận giá” bốn trăm rưỡi lạng bạc (… vâng ngoài bốn trăm) và
hắn ta kiếm lời được năm mươi lạng, còn xài được “gái trinh” đến nỗi mụ Tú bà
kêu trời – “Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma!”)
Có ý kiến cho rằng chuyện “mua bán” Kiều khi qua Truyện Kiều của Nguyễn Du
đã “chuyển bạc thành vàng” thì cũng có lý để nâng giá trị “tài sắc vẹn toàn”
của Kiều vì rõ ràng giá trị của bạc làm sao bằng giá trị của vàng!
Nguyễn Du đã mấy lần nhắc đến “vàng”. Mở đầu, Mã Giám sinh hỏi; mụ mối đưa
cao giá:
“Rằng: Mua ngọc đến Lam
Kiều
Sính nghi xin dạy bao
nhiêu cho tường ?
Mối rằng: đáng giá nghìn
vàng
Gấp nhà nhờ lượng người
thương dám nài.” .
Thách giá “nghìn vàng” thì chí ít phải bán khoảng trên dưới 400 lạng vàng
chứ sao lại hạ xuống 400 lạng bạc?
Lại ở đoạn kết thúc :
“Mái ngoài họ Mã vừa
sang
Tờ hoa đã ký, cân vàng
mới trao
Trăng già độc địa làm
sao ?
Cầm dây chẳng lựa buộc
vào tự nhiên…”.
Rõ ràng câu thơ là “cân vàng” chứ chẳng phải là bạc. Chữ “vàng” chữ Nôm ở
đây rất rõ, một bên bộ “kim”, một bên chữ “hoàng”!
Thực ra giá trị nghệ thuật của truyện “Kiều Việt” cao hơn nhiều so với
“Kiều Tàu” khi chính Truyện Kiều của Nguyễn Du đã được người Nhật thời ấy mang
về nước và dịch thành tiếng Nhật trong khi chính “Kim Vân Kiều truyện” của
Thanh Tâm Tài Nhân thì kể cả những nhà học thuật của Tàu cũng chưa từng biết
đến!
Nguyễn Du đã thay đổi rất nhiều sự việc, thay đổi tính cách nhân vật, cắt
bỏ nhiều tình tiết truyện…: Tên nhân vật Kế thị, mẹ Hoạn Thư chẳng hạn đã lược
bỏ… Kế thị trong buổi Kiều xử án của Thanh Tâm Tài Nhân: vì sợ quá mà chết liền
tại chỗ, phải kéo xác ra ngoài… thì Truyện Kiều của Nguyễn Du lại không có chi
tiết này. Hoạn thư trong truyện của Thanh Tâm Tài Nhân: bị lột trần, mình chỉ
còn cái khố, cột tóc treo lên đánh đến róc cả da ra, người chẳng còn chỗ nào
lành lặn… thì trong Truyện Kiều, Kiều lại xử rất nhẹ nhàng :
“…Tha ra thì cũng may
đời
Làm ra thì cũng ra người
nhỏ nhen
Đã lòng tri quá thì nên
Truyền quân lệnh xuống
trường tiền tha ngay…”.
Trong truyện Tàu trước Thanh Tâm Tài Nhân, Kiều chỉ là Mã Kiều nhi, con hầu
tầm thường trong kỹ viện nhưng với Nguyễn Du lại là nhân vật tài sắc tuyệt vời.
Từ Hải chỉ là tên tướng cướp biển lại trở nên:
“…Râu hùm, hàm én, mày
ngài
Vai năm tấc rộng, thân
mười thước cao.
Đường đường một đấng anh
hào
Côn quyền hơn sức lược
thao gồm tài
Đội trời đạp đất ở đời
Họ Từ, tên Hải, vốn
người Việt Đông.
Giang hồ quen thói vẫy
vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non
sông một chèo…”
Khi đọc đến đoạn trả ơn , trả thù trong “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm
Tài Nhân, có lẽ người đọc rùng mình với những hình phạt thảm khốc dã man mà
“Kiều Tàu” đã dành cho những tên trước kia hãm hại nàng như sau:
- Bạc Hạnh: Lấy dao vằm nát thân thể, rồi cho ngựa ăn, chặt từ chân lên đầu
thành hơn trăm đoạn, thành một đống thịt như bùn.
- Bạc Bà: Đem chặt đầu bêu lên cây
- Hoạn Ưng, Hoạn Khuyển: Ra chém bêu đầu
- Hoạn Thư: Lột hết áo quần, chỉ chừa lại một cái khố, tóc buộc lên xà nhà.
Hai tên cung nữ cầm roi ngựa đồng loạt ra tay, một người đánh từ trên đánh
xuống, một người đánh từ dưới đánh lên, đánh như con chạch rơi trên đống tro,
con lươn trong vạc nước nóng, luôn luôn giãy giụa kêu trời. Toàn thân chẳng còn
miếng da nào lành lặn
- Tú Bà: Lấy dầu bách tưới đẫm vào người, rồi dựng ngược cho đầu xuống đất,
chân chổng lên trời, như ngọn đèn trời, cuốn thành một cây sáp lớn, châm lửa
- Mã Bất Tiến (Mã Quy – Mã Giám sinh) thì kẹp chân tay vào mảnh gỗ cho
thẳng căng ra, rồi rạch da và moi gân khiến cho tứ chi rời rạc. Quân sĩ tìm chỗ
chùm gân, lấy mũi dao nhọn khoét da, rồi dùng lưỡi câu móc vào đầu gân, dùng
sức lôi mạnh một cái. Mã Bất Tiến lập tức chết tươi. Quân sĩ rút thêm ba bốn
cái gân nữa làm cho thi thể Bất Tiến rời ra từng mảnh. Phu nhân bèn sai quẳng
xác ra biển cho cá ăn để đền tội bạc tình.
- Sở Khanh: Nấu một nồi tùng hương trộn lẫn với vỏ cây gai, đun thật sôi và
lấy chum nước lớn để bên, đem Sở Khanh ra, lột hết áo xiêm, một người thì múc
dầu tùng hương đun sôi tưới vào mình hắn, một người thì lấy nước lạnh dội theo.
Bên trong tuy vẫn còn sống nhưng bên ngoài không cựa quậy được. Quân sĩ chạy
đến bóc miếng vỏ gai nơi đầu ra, thì da đã bị dầu tùng ăn loét ra, chẳng cần
dùng đao kiếm, chỉ tuốt một cái thì lột hết da. Độ nửa giờ sau, thân thể Sở
Khanh chỉ còn trơ lại một cục máu đỏ lòm nhưng vẫn còn thoi thóp. Phu nhân lại
sai đem nước vôi rưới vào, tức thì toàn thân Sở Khanh nổi lên những cái bọt
lớn. Chỉ trong chốc lát đã rữa nát thành mủ máu, rớt thịt trơ xương mà chết.
Còn “Kiều Việt” của Nguyễn Du mặc dù cũng “báo ân, báo oán” nhưng qua những
câu thơ lục bát thì vẫn còn nhẹ nhàng hơn nhiều, thấm đẫm tính nhân đạo đối với
kẻ thù của một tâm hồn “thuần Việt”.
Ngày nay, có lẽ nhiều người Việt dù có đọc Kiều nhưng có lẽ ít nhận thấy
tính nhân văn của tác phẩm này, chưa thấy hết cái luật “nhân quả”, thuyết “tài
mệnh tương đố”…
“Trăm năm trong cõi
người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là
ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà
đau đớn lòng…”
Không biết tự bao giờ, những “tâm hồn Việt” đã lai căng, chuyển hóa thành
“hồn Tàu” mà ngày nay “cái Ác” dần dần lấn áp “cái Thiện” và hiện diện khắp đất
nước này!
Không tin cứ mở báo ra mới xem cái tít báo chạy thì cứ ngỡ là ở nước Việt
nhưng đọc hết thì xảy ra bên Tàu và ngược lại!
Một buổi chiều cũng đã hết Tết, có dịp đọc lại “Kim Vân Kiều truyện” của
Thanh Tâm Tài Nhân bên Tàu và suy ngẫm những cái cốt lõi trong “Truyện Kiều”
của cụ Nguyễn Du, có một chút tản mạn về hai “nàng Kiều” của hai nước “tương
lân” và cũng để kết thúc bài này xin mượn hai câu thơ của cụ Tố Như:
“Lời quê góp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh”
Hoài Nguyễn - 09/02/2022.
Xem thêm bài của Nguyễn Hải Nhu viết và đăng ngày 19/11/2023 dưới tiêu đề "Bài văn nghị luận truyện Kiều 01 điểm của học sinh..."
CHƯA CHẮC SỰ THẬT ĐÃ TỐT - Truyên ngắn
Anh ta ngúc ngắc cái
đầu vẫn còn ù ù và quay tít, mọi vật trước mắt mờ mờ không thể định hướng được.
Mãi lúc sau anh mới nhìn rõ, thì ra thằng con trai anh đang đứng chống nạnh
nhìn anh ta hằm hằm:
-
Tôi
hỏi lần nữa, ông có ký vào bản di chúc này không?
-
Di
chúc nào? Ai lập di chúc, lập di chúc cho ai?
-
Tìm
hiểu làm gì nhiều thế? Cho ai cũng vậy,
không cần tìm hiểu, ký đi!
-
Không
ký thì sao?
-
Thì
no đòn!
-
Đã
no đòn rồi còn ăn làm sao được nữa?
-
Ăn
đến khi nào chịu ký mới thôi!
Tôi cũng vô tình nghe
và thấy được cái cảnh chẳng đáng chiêm ngưỡng tí nào của cha con anh hàng xóm.
Anh ta kém tôi hơn
chục tuổi, làm công nhân phụ động xây dựng, cũng có vợ, có con, có gia đình như
bao người khác, sống bằng đồng lương ít ỏi mà như nhiều bà vợ cứ kêu rõ to cho
cả làng biết là chưa đi đến chợ đã tiêu hết tiền. Nhiều người nghe không thủng
cứ tưởng anh ta yếu sinh lý không làm cho vợ thỏa mãn mà kêu lên để chọc tức
chồng, nhưng có ở lâu mới biết thì ra mọi cái đều lộn tùng phèo, tức là đều
ngược lại ráo cả.
Anh ta là thợ nhưng
sức vóc thì lại sở hữu cái sức vóc của một lực sĩ. Cứ nhìn hai bắp tay cuồn
cuộn, hai bắp đùi hộ pháp thì không ai dám nói là anh ta yếu sinh lý được. Còn
chị vợ thì tong teo như một cọng rau héo, cho nên mọi người sau mới hiểu ra là
kiếm tiền ít, chứ không phải là sức lực yếu đâu ạ.
Nhưng, ở đời luôn có
chữ nhưng. Đấy là một hôm đi làm như bình thường, ngang tầm anh thấy nóng ruột
cái gì đấy bèn xin phép chỉ huy cho về nhà, thì anh bắt được vợ rước giai về
nhà và khi cô ta đã nhận ra chồng đứng bên cạnh vẫn không dừng lại được, vẫn cứ
nhẩy tưng tưng như ngựa đang phi nước đại.
Do không kìm chế được,
anh ta túm lấy thằng đàn ông đang cưỡi lên bụng vợ mình tát một cái rõ mạnh.
Cái tát ấy đã đưa anh vào tù vì nó quá mạnh không có chừng mực gì, làm cho tên
gian phu kia chỉ kịp ặc lên một tiếng rồi lập tức lên đường đi Tây Trúc về với
ông bà ông vải.
Ở tù được vài tháng
vì không chịu thua thằng nào bắt nạt mình, anh bị bọn đầu gấu chùm chăn dùng
gậy phang gẫy cả hai ống đồng.
Thế là tàn đời. Sau
thật bất ngờ anh được nhà tù thả ra do được một ông luật sư, trước kia là chới
với bố anh, biết hoàn cảnh đã cãi để giảm án.
Không còn đi làm được
ở đâu nữa, anh đành cọ quậy làm bất kỳ việc gì để sống tạm qua ngày với lòng
thương hại của bà con xóm giềng và một số người hảo tâm biết chuyện.
Vợ anh thì bỏ đi theo
một thằng nhân tình mới, ít hơn cô ta sáu tuổi
ngay ngày hôm sau, để lại cho anh thằng con trai mới mười ba tuổi dở dở, ương
ương, không sao dậy nổi.
Đầu tiên thằng bé ăn
cắp vặt của mọi người quen quanh xóm, rồi sau đến người lạ. Nó nhanh nhẹn và
chạy trốn rất giỏi. Người không thể chạy được là anh. Thế là mọi giận dữ của
mọi người lại đổ lên đầu anh như cơm bữa.
***
Cái cảnh thằng con
khảo bố để bắt anh ký vào di chúc để nó bán nhà đi đánh bạc và hút chích thì
anh đã mường tượng ra từ lâu rồi. Thế rồi cái gì đến nó đã đến.
Mấy hôm sau anh phải
chống gậy tập tễnh bước ra khỏi nhà để chủ mới đếnnhận.
Nhưng,… lại là nhưng,
anh lại được ông luật sư nhân đạo quen cũ cưu mang và làm đơn kiện ra tòa về
việc bán và chiếm đoạt đất trái phép.
Chả biết ông ta làm
những gì mà anh lại được trở về căn nhà nhỏ cũ nát chứ không phải ra cư ngụ tại
bãi rác cuối làng nữa.
Thằng con trai anh bị
vào trại cải huấn vì mới mười lăm tuổi mà đã phạm tội hằng ngày. Ít lâu sau thì
không ai biết nó chuyển đi đâu, về đâu nữa.
Mấy năm sau đó anh
được ông luật sư đưa đi bệnh viện để nối lại ống đồng.
Anh đi lại được, xin
việc làm, và chẳng ai ngờ, tối tối anh ta lại ngồi ôn bài vở cũ. Và thật bất
ngờ mấy năm sau anh thi đỗ vào một trường đại học danh tiếng trong cả nước.
Ra trường anh về một
cơ sở làm viêc lớn nhất nhì Thủ đô. Anh trở nên một chuyên gia giỏi. Kinh tế ổn
định. Thì bỗng một hôm cô vợ cũ, bây giờ tàn tạ, gày quắt, gày queo, tìm về xin
anh tha lỗi.
Thằng con trai anh
sau khi ở tù gần mười năm, bị đồng bọn bắt chịu đủ mọi cực hình, chúng cắt tai,
cắt mũi và một chân. Bây giờ nó gày còm, nghiện oặt, tập tểnh, nhảy lò cò trên
cái chân còn lại và cái gậy tre buộc bên hông. Nó mới được ân xá sau tết vừa
rồi, cũng tìm về chỗ anh nương tựa. Bây giờ thì nó không còn sức lực để quậy phá
và càng không còn sức để lao động kiếm ăn hằng ngày nữa. Cuối cùng anh đành
nhận nó về nuôi vậy chứ biết làm sao?
Với cô vợ, thì anh
nói là để còn suy nghĩ lại đã. Nhưng đến giờ anh đã ngoài bảy chục tuổi rồi anh
vẫn chưa quyết định rõ ràng thế nào cả. Anh vẫn độc thân ở trong căn nhà rộng mênh
mông thường ngồi nghĩ lại các biến động của cuộc đời mà ngẫm nghĩ, mà tiếc
nuối, ao ước rằng giá như hiện tại không phải là sự thật.
Hai vợ chồng đến với
nhau từ lúc còn rất trẻ, còn rất nghèo khó, với hai bàn tay trắng, thế mà qua
sóng gió và biến cố của cuộc đời, giờ họ đã già rồi vẫn không thể ở cạnh nhau,
không thể chia ngọt sẻ bùi với nhau được nữa.
Một hôm có việc ra
ngoài, lúc trở về hỏng xe, ông đứng dưới gốc cây hút thuốc đợi tài xế mở nắp
ca-pô sửa cái gì trong đó thì vô tình thấy một bóng người ngồi run rẩy cạnh gốc
gần đó. Ông bước lại định hỏi han đôi câu, khi bật đèn pin lên thì giật mình
nhận ra đó là vợ mình, đang co ro trong mảnh bạt nhỏ bẩn thỉu.
Ông đã lại bên kéo bà
ta dậy, nói:
- Tôi nghĩ lại rồi,
tôi đã cho người tìm khắp nơi mà không thấy bà, nay may thấy rồi, bà hãy về nhà
cùng tôi để sống những ngày cuối đời bà nhé.
- Tôi không còn mặt
mũi nào về với ông nữa. Ông không cần thương hại tôi!
Cuối cùng không làm
thế nào để bà ta nguôi tủi hổ, ông đành quay về một mình. Ông sai người theo
dõi, chu cấp cho bà vợ già khốn khó, nhưng bà kiên quyết không nhận một thứ gì.
Mãi sau đến hàng năm,
có người bày cho ông , bảo thằng con đi tỉ tê với mẹ nó. Không ngờ kế ấy lại
thành công.
Qua bao sóng gió gia
đình ông lại được xum họp mặc dù nó không còn toàn vẹn, tròn trịa như xưa nữa.
Hà
Nội, 2023.
tháng 6 25, 2023
Bình minh biển
BÌNH MINH BIỂN
Sớm ra
mép biển đón bình minh,
Sóng nhẹ
mơn man liếm cát mềm.
Gió thoảng
đâu đây hương biển mặn,
Nồng nàn như những cặp môi êm!
Đồ
Sơn, 2023.
tháng 5 30, 2023
Đồ Sơn đẹp
ĐỒ SƠN ĐẸP
Đã mấy
năm rồi, mới về đây,
Đồ Sơn
vẫn đep, nắng vẫn đầy.
Ôi
nhành phượng vĩ sao đỏ thế?
Như nụ
hôn nồng mãi đắm say!
Đồ Sơn, 28/05/2023.
tháng 5 08, 2023
Những mẩu chuyện được ghi lại khi còn đi làm
Những mẩu chuyện được ghi lại khi còn đi làm
A- Ông Đinh Đức Thiện:
(15
tháng 11 năm 1914 – 21 tháng 12 năm 1986), tên thật là Phan Đình Dinh, là một
vị tướng lĩnh cấp cao, hàm Thượng tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ
Quốc phòng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch
nhà nước nay là Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng Bộ Cơ khí
Luyện kim, Bộ trưởng Phụ trách dầu khí, Bộ trưởng Bộ Giao
thông Vận tải, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần. nguyên Ủy
viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III và khoá IV. Huân
chương Sao vàng. Ông được mệnh danh
là "Anh cả của ngành vận tải quân sự Việt Nam".
Ông Đinh Đức Thiện làm Bộ trưởng Bộ Cơ khí và Luyện kim
kiêm Bộ trưởng Bộ Giao thông giai đoạn 1969 – 1971.
Từ 7/2/1980 đến 23/4/1982, ông là Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận
tải.
Ông đã nói trong một hội nghị của Bộ GTVT:
1- “Tôi chỉ học lớp 10 trừ sáu (tức là lớp 4) nhưng làm bộ
trưởng bộ nào cũng dư sức”.
2- Tôi đi cùng đoàn của Bộ, có cả bộ trưởng Thiện xuống cảng
Vật Cách Hải Phòng để kiểm tra tiến độ thi công và chất lượng công trình. Khi
bước trên xe ô-tô xuống đất, ông Thiện dẵm phải vũng nước ướt giày.
Ông đã cáu giận quát lên:
-
“Thằng nào thiết kế cái cảng này mà ngu như chó”!
Trong đoàn đi lúc đó
có mặt cả ông Nguyễn Ngọc Cẩn: Viện Phó Viện Thiết kế Giao thông - Phó Tiến sĩ
khoa học kỹ thuật tốt nghiệp ở Liên xô về và là người thiết kế cảng này.
Đồng Sĩ Nguyên (1 tháng 3 năm 1923 – 4 tháng 4 năm 2019), còn được viết là Đồng Sỹ Nguyên, tên thật Nguyễn Hữu Vũ, là một cựu tướng lĩnh
và chính trị gia của Việt Nam.
Ông là vị Tư lệnh của Binh đoàn Trường
Sơn trong thời gian lâu nhất
(1967–1975) và là một trong hai vị tướng Quân đội nhân dân Việt Nam được phong
quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng.[1] Ông
cũng từng giữ chức Phó chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Phó Thủ tướng Chính phủ), Bộ trưởng Bộ Giao
thông Vận tải, Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Đặc phái viên Chính phủ, Đặc trách Chương trình 327
về bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ và rừng đặc dụng, Cố vấn Đặc biệt của Thủ tướng
chính phủ, tham gia Ban Chỉ đạo Nhà
nước về Đường Trường Sơn. Trong Đảng Cộng sản
Việt Nam, ông từng là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khoá VI, Ủy viên dự
khuyết Bộ chính trị khoá V, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IV.
Từ năm 1982, ông làm Bộ trưởng Giao thông Vận tải.
Câu chuyện từ "cầu treo Mùa Xuân" đến cây cầu Chương Dương
Những ngày xuân ngay
sau Tết Canh Thân, đầu năm 1980, Hà Nội làm lễ khởi công để xây dựng cây cầu
nhằm giảm tải cho cầu Long Biên. Cây cầu dự định xây khi ấy mang cái tên rất ấn
tượng: "Cầu treo Mùa Xuân".
Nguyên do là ngày 30
tết năm Canh Thân (1980) ông bộ trưởng Nguyên có lịch ra “viếng” cầu đang khởi
công. Thực tế thì mọi người trên công trường đã nghỉ tết từ ngày 23 tết (ngày
cúng ông công ông táo). Chỉ huy công trường bèn cuống cuồng huy động một số
công nhân ở gần địa bàn cầu đến công trường để “diễn” cho ông bộ trưởng xem.
Lúc nghe thấy tiếng
búa đóng cọc nổ, ông Nguyên vui vẻ nói:
- “Tiếng búa nổ trên
công trường vào ngày 30 tết thật vui tai, như tiếng pháo nổ mùa xuân”!
Thế là “tập thể đồng
bào nô lệ” đồng thanh hô lên:
- Chí phải, chí phải,
cái cầu chúng ta đang khởi công hôm nay xin được lấy tên là cầu treo mùa
xuân!!!
Từ đó cái tên Cầu
Treo Mùa Xuân ra đời!
Tên cầu lúc khởi công (ngày 10-10-1983) là “Cầu treo mùa
xuân”, sau đó tại sao lại được đổi tên thành cầu “Chương Dương”
Công việc xây “cầu
treo Mùa Xuân” không suôn sẻ! Vì để làm cầu treo thì vấn đề đặt ra là nó không
hề đơn giản:
- Lấy đâu ra cáp
treo"?
- Tiền mua cáp lấy
đâu ra?
- Nguồn cáp ở đâu ra?
Vì Việt Nam vẫn đang bị cấm vận…
Thế là công
trình "Cầu treo mùa xuân" qua suốt mấy năm bị giẫm
chân tại chỗ! Vì thế phương án cầu treo là không khả thi.
Do đó đến đầu năm
1983 thì Bộ Giao thông Vận tải và Thành phố Hà Nội quyết định thay "cầu
treo" bằng "cầu cứng".
Ngày 10/10/1983 trên
vị trí đã khởi công làm cầu treo lại tổ chức lễ khởi công làm cầu cứng! Cây cầu
cứng này mang tên là "cầu Chương Dương".
Cầu Chương Dương nối
trung tâm Hà Nội với Gia Lâm bên bờ bắc sông Hồng.
Đây là cây cầu lớn
lần đầu tiên được thiết kế và thi công tại Việt Nam không được sự trợ giúp kỹ
thuật của các kỹ sư nước ngoài!
Sách vở viết như thế
và thực tế không có chuyên gia nước ngoài nào trực tiếp làm ở công trình.
A- Theo ông Nguyễn
Văn Ất khi ấy là Trợ lý, kiêm phiên dịch của Trưởng đoàn chuyên gia Liên Xô xây
dựng cầu Thăng Long chia sẻ thì:
a- Cầu Chương Dương
có chiều dài 1.210,9 mét, rộng 19,26 mét gồm 02 làn xe tải ở giữa, 02 làn xe
con đi chung với xe máy ở hai bên cánh gà
b- Dầm thép để làm
cầu Chương Dương là tận dụng các dầm thép của các cầu đường sắt được viện trợ
thời chiến tranh chống Mỹ để đảm bảo giao thông, được gia công "chế"
lại.
c- Sắt thép, xi măng
cho cầu Chương Dương được công trình cầu Thăng Long "chi viện" rất
nhiều. Thậm chí có hạng mục như các tháp kiến trúc mỹ thuật đầu cầu Thăng Long
không làm để dành vật liệu cho cầu Chương Dương.
B- Theo một kỹ sư cầu
lâu năm, người đã theo dõi từ đầu lúc còn thảo luận, bàn bạc và cả phản biện
trên hội nghị, thì cầu treo mùa xuân khi không thể khả thi thì buộc phải làm
một cầu khác để lấp chỗ trống.
Lúc đó 6 trụ cầu treo
đã làm xong, đổ xuống sông Hồng hàng ngàn tỷ đồng không dùng vào việc gì cả và
cũng không ai chịu trách nhiệm.
Viện Thiết kế Giao
thông được giao ngày đêm thiết kế một phương án lấp chỗ trống.
Đó là cầu Chương
Dương chữa cháy và chắp vá. Cố tận dụng 6 trụ cầu treo Mùa Xuân đã làm, tránh
lãng phí.
- Rầm thép thì lấy
trong kho bộ rầm cầu Long Biên được Trung Quốc viện trợ còn mới tinh dự định
sau chiến tranh sẽ thay thế một cầu Long Biên mới. Vì thế các rầm thép được đem
khoan cắt chế sửa, chắp vá, kiểu đầu cá vá đầu tôm, làm cho xong một cái cầu để
chữa cháy.
- Sau khi kiểm tra
cục Đăng Kiểm nhà nước kết luận: độ rung lắc quá quy định 6,7 lần nên không cấp
phép thông xe.
Nhưng do “chính chị
hay chính em” gì đó cầu vẫn cho chạy xe! (Trần Quốc Khánh)
.
3- “Cầu treo Mùa Xuân” vì sao không khả thi.
Ông Bùi Danh Lưu lúc
đó là Viện trưởng Viện kỹ thuật Giao thông Cầu Giấy: (cơ quan chủ quản thí
nghiệm vật liệu xây dựng cho công trình cầu đường) làm chủ nhiệm đồ án thiết kế
Trong hội nghị quyết
định để có tiến hành xây dựng cầu tại vị trị đã khảo sát thiết kế. Các vấn đề
đã mang ra thảo luận là:
A- Số lượng cáp để
làm cầu treo qua sông Hồng tổng dài lên đến trên 1200 mét khoảng trên 5.000
tấn, theo báo cáo của Cục Vật tư lúc đó có trên 15.000 tấn (trên sổ sách).
Trên thực tế thì cáp
do các nước Xã Hội Chủ Nghĩa như Liên xô, Ba Lan, Tiệp Khắc,… khi viện trợ (đã
không biết dùng cáp để làm gì), vì thế nên cáp không cùng chủng lọai không thể
bện với nhau làm cáp chủ đường kính > 1500 cm được.
Số lượng cáp báo cáo
là trên sổ sách, có kho còn, có kho hết sạch. Trong số lượng cáp trên một số
còn dùng được, đa số cáp còn lại (do không biết cách bảo quản cáp) đã bị gỉ giún
không dùng được nữa. (do ông Nam cục trưởng cục Vật tư bộ GTVT báo cáo)
B- Máy bện cáp chủ
đường kính trên 1500 cm. Lấy ở đâu, mua ở đâu, ai chế tạo?
C- Chế tạo Pu-li
chuyển cáp trên đỉnh cột cầu treo, đường kính > 1500 cm. Lấy ở đâu, ai chế
tạo?
D- Hiện trường bện
cáp (bãi bện cáp chủ) > 1.500 m. Dự kiến phải phá Phố Hàng Mắm để bện cáp.
(Hồi đó còn có người có ý định đặt tên là cầu treo Hàng Mắm).
Từ "cầu treo Mùa Xuân" đến cây cầu
Chương Dương
Nguyễn Văn Ất
***
Cuối cùng thì ngày 21/06/
1986 đến tháng 11/1996: (10 năm 138 ngày), ông Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Danh Lưu (1935–2010) chuyên làm về Vật
liệu được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ GTVT thay ông Đồng Sỹ Nguyên!!!!
Ngày 10/10/1983 trên
vị trí đã khởi công làm cầu treo lại tổ chức lễ khởi công làm cầu cứng! Cây cầu
cứng này mang tên là "cầu Chương Dương".
Cầu Chương Dương nối
trung tâm Hà Nội với Gia Lâm bên bờ bắc sông Hồng.
Đây là cây cầu lớn
lần đầu tiên được thiết kế và thi công tại Việt Nam không có sự trợ giúp kỹ
thuật của các kỹ sư nước ngoài!
Sách vở viết như thế
và vì không có chuyên gia nước ngoài nào trực tiếp làm ở công trình. (Thực tế
nó là cái cầu chữa cháy, do phương án cầu treo đổ, nên làm sao mà nước ngoài nhảy
vào để giúp được??? – (TQK)
Đúng là “sống chết
mặc bay, tiền thày bỏ túi!”
Ông Bùi Danh Lưu,
người làm đổ đồ án thiết kế cầu treo Mùa Xuân, người vứt xuống sông Hồng hàng
mấy ngàn tỷ đồng vẫn được cấp Huân chương Lao động của nhà nước!
Thái độ không coi ai ra gì của mấy ông
lãnhđạo
Nếu như gia đình các
ông lãnh đạo có một tí chức sắc ấy đủ ăn, thì các ông đã được dạy dỗ như những
đứa trẻ bình thường khác và nếu như gia đình các ông có giáo dục thì các ông đã
không coi thường người khác như cỏ rác.
Việc không được học
hành, cũng không phải là lỗi của các ông, vì khi đói bụng thì như nhiều người
thường nói và quan niệm rằng: “Lấy cứt ăn, để đi học à!”
Và đúng như người ta biết
và thường nói với nhau là các ông đều là đồ “mất dạy” sinh ra trong các gia
đình “vô giáo dục”, “đầu đường, xó chợ!”
Người xưa dạy: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý”, (玉不琢,不成器; 人不學, 不知義) nghĩa là, hòn ngọc thô kia nếu chẳng được mài giũa thì cũng chẳng thành
món đồ trân quý, con người ta không học qua thầy hay bạn tốt, qua nghịch cảnh
của đường đời thì chẳng thể hiểu đạo lý làm người.
Không phải mất công
đi đâu, tìm ở đâu, mà cứ tiếp xúc dăm lần với các ông là biết ngay!
Từ chỗ không được học
hành, nhưng do cơ chế(!) được nâng lên cao “vô cớ”. Các ông ấy cho rằng rằng
mình cũng oai ra phết, đáng quí ra phết. Từ đó ngộ nhận về bản thân mình. Điều
đặc biệt họ không bao giờ chịu xem lại mình là ai, là người thế nào, mặt mũi ra
sao! Bởi khi mặt họ đã vác ngược lên thì chẳng có cái gương nào xoi được cái
mặt lệch của các ông ấy.
Trong lần họp để đi
đến quyết định xây cầu treo Mùa Xuân, có kỹ sư lâu năm đã từng phản biện hỏi đi
hỏi lại mấy lần, biện pháp để thực thi thì đều bị gạt đi và mắng rằng:
- Anh chỉ lo bò trắng
răng, số lượng cáp trong kho có thừa 5 lần số lượng cáp cần để làm cầu (câu trả
lời của ông Bảo Cục trưởng cục Vật Tư Bộ GTVT). Nhưng thực tế phương án cầu
treo Mùa Xuân đổ vì thiếu cáp!
Do tắc trách, do
không sâu sát, hay do quan liêu!!!
Hay thì khen, hèn không chê!
Thông thường các cụ
dạy: “Hay khen, hèn chê”!
Nhưng các ông trời
con ít học này thì lại làm ngược lại. Tức là bất kỳ kẻ nào đã được nạp làm tay
chân của các ông thì bất kỳ làm cái gì đều được khen phục tất. Thì đấy cái cầu
treo Mùa Xuân bị đổ thiết kế, ném xuống sông Hồng tiền của 6 cái trụ cầu treo
vài nghìn tỷ đồng, kéo dài tiến độ thi công cầu 2 năm, tai nạn trong thi công
xảy ra 4, 5 vụ lớn nhỏ mà không ai bị khiển trách.
Ê-kíp vẫn liên hoan
đón huân huy chương và đặc biệt ông Tiến sĩ Bùi Danh Lưu ngay sau đó được đề bạt lên làm Bộ trưởng Bộ Giao thông
Vận tải!
Thì ra câu nói của
ông Đinh Đức Thiện là đúng:
“Chỉ cần học lớp 4
thì làm bộ trưởng bộ nào cũng dư sức!”
Cái nhà nước ấy mới
thật là “phi thường” và “phi lý”!
Hà Nội, 2023.