tháng 10 22, 2018
Con mồi
Cư và Khải chơi với nhau từ lúc còn bé tí, thân nhau hơn cả anh em ruột.
Học cùng lớp từ trung học đến đại học, ra trường mỗi người mỗi ngả, nhưng
vẫn gắn bó mật thiết, dăm ngày không gặp, không tin tức qua lại là không chịu
được.
Nhưng các cụ thường chẳng bảo “cha mẹ sinh con, trời
sinh tính”, đến anh em ruột cùng cha mẹ cũng chẳng thật giống nhau nữa là!
Cuộc đời có những lối rẽ khác nhau. Học xong đại
học, Cư lớn tuổi hơn, cao khỏe hơn nên vào quân ngũ. Sau hơn mười năm chuyển
sang Công an Hải Phòng, về hưu với cấp bậc Thượng tá, bố mẹ để lại cho ngôi nhà
ngay mặt đường rất thuận tiện cho việc buôn bán.
Vậy mà cũng phải xoay lòng vòng từ một cửa hàng
Photo copy nhỏ, đến buôn bán bánh kẹo rồi sau phát triển thành một cửa hàng lớn
nhất phố.
Cư có hai con, lúc đầu thì hai đứa cũng đoàn kết, nhưng
do xuất thân từ con cái nhà buôn, lấy đồng tiền làm thước đo cuộc sống, nên sau chúng
chia rẽ, cuối cùng coi như thù địch không nhìn mặt nhau nữa.
Khải làm bên dân sự đến năm tư tuổi thì do cơ quan
rất ít việc làm mà số năm công tác cũng đã xấp xỉ bốn mươi năm, nên về hưu với
mức lương thấp nhất. Vợ ra chợ bán ốc luộc, chồng sửa xe đạp đầu đường, chật
vật nuôi con và phải làm đủ mọi nghề để tồn tại.
Khải và gia đình định cư tại Hà Nội nhưng nhà bố mẹ
lại ở Hải Phòng, cạnh nhà máy Xi măng. Năm 1972 Mỹ ném bom đánh phá khu vực này
thì nhà cửa tan nát cả.
Nhưng đúng là họa vô đơn chí tức là tai họa không
chỉ đến có một lần. Nhà bị Mỹ phá sập, còn đất ở thì bị nhà máy Xi măng lấn ra
chiếm nốt.
Từ năm 1993 Khải đã làm đơn khiếu kiện để đòi lại
mảnh đất ấy. Nhưng cái cơ chế của nhà nước này giống hệt như con ba ba đã cắn
vào đâu thì chỉ khi có sấm mới chịu há mõm ra (1). Khiếu kiện mãi đến hơn hai
mươi năm sau mới được thành phố Hải Phòng và nhà máy Xi măng xét đến thửa đất
bị chiếm giữ trái phép.
Mảnh đất là của bố mẹ để lại nên Khải không quản
công. Từ phường, xã đến quận, tỉnh, bộ này, tổng cục nọ, báo, đài từ địa phương
đến trung ương. Tít trên cao tận Ban tiếp Công dân của Trung ương Đảng, không
cửa nào không gõ, không vị La hán nào không thắp hương khấn vái.
Đơn từ và các loại công văn phúc đáp đã lên đến trên
200 lá, đóng lại dày như một quyển Từ điển Bách khoa Toàn thư đồ sộ. Kèm theo còn
có các loại giấy tờ chứng nhận chính sách ưu tiên, nào là gia đình Liệt sĩ, cả
nhà ai cũng có công với Cách mạng, Huân, Huy chương hàng vốc, thành tích hàng tệp.
Một anh trưởng Trưởng ban thời sự tờ tuần báo “Pháp
Luật và Công Lý” khi được “khổ chủ” trình bày và cho xem tập hồ sơ đòi đất đã
thốt lên:
- Tài liệu bác làm đầy đủ, rõ ràng và thuyết phục
hơn cả một luận văn thi lấy bằng Tiến sĩ ở Viện
Đại học Ha-vớt(2) bên Mỹ!
Cô con dâu Khải đang công tác ở Đài Truyền hình
Trung ương thấy bố chồng vất vả hàng hai chục năm trời kiện cáo mà chưa có kết
quả gì, góp ý:
- Bố ạ, bây giờ không ai giúp không ai cái gì. Bố làm
đơn khiếu kiện trình bày dù đầy đủ, dù thuyết phục, thì có đến cả trăm năm cũng
không đòi được đất. Muốn được việc phải tìm xem chỗ nào họ chuyên lo, chuyên
chạy việc này, rồi phải “móc hầu bao” ra mới có kết quả. Bây giờ bố đã già rồi,
mà cũng đã kiện tụng trên hai chục năm, chỗ nọ truyền chỗ kia y như trên một
sân bóng không có khung thành, chẳng may xảy ra chuyện gì, thì coi như công lao
đổ xuống sông, xuống biển cả!
- Con nói có lý, nhưng đã hơn hai chục năm trời (từ
1993 đến 2013), bố vác đơn đi khiếu kiện, đến đâu người ta cũng đối xử nhẹ
nhàng, cũng hứa hẹn để mình không hết hy vọng. Không một ai phũ phàng, không
chỗ nào người ta phủi tay từ chối, đâu đâu cũng tỏ ra thật thấu tình đạt lý.
Nhưng tiến trình giải quyết công việc cứ “loanh quanh như chó mót ỉa”! Đi trọn
một vòng rồi lại về chỗ xuất phát...!
Bố thì già rồi, đã mệt mỏi rồi, con đang công tác ở
một môi trường rộng lớn, thử tìm xem có nơi nào chuyên làm việc này, nhờ người
ta lo cho vậy.
Ít ngày sau cô con dâu dẫn về một “chuyên gia” có
vai vế hẳn hoi, ngoài việc chuyên môn ở Đài, còn làm thêm nghề tay trái là lo
lót các vụ kiện tụng và tranh chấp dân sự.
Sau khi xem xét rất kỹ mọi hồ sơ tài liệu, anh ta
nói:
- Việc này cháu nhận làm. Vì chỗ quen biết, cháu nói
ngắn gọn thế này bác phải “thối lại” cho chúng cháu từ 20 đến 22% tổng số tiền
bác được hưởng.
- Tôi đồng ý, nhưng vì đã về hưu, nên không có tiền
ứng trước. Tôi xin thanh toán sau cho anh có được không?
Anh ta không nói gì, ngoảnh sang cô con dâu ông,
chừng như hỏi ý.
Cô con dâu hiểu ra, vội nói:
- Em xin bảo lãnh việc này cho bố chồng em!
Công việc được tiến hành hơn tháng thì Cư biết chuyện.
Cư đã rất nhiệt tình thuyết phục Khải giành lại việc trên để Cư làm với lý do
bây giờ Cư đã về hưu rồi, cũng chuyên lo lót các vụ kiện cáo tranh chấp về dân
sự.
- Ông thử nghĩ xem, nếu không có việc gì làm cho hết
thời gian, mà tôi lại không biết viết truyện như ông thì chỉ còn nước ngồi đếm
ngược đến ngày chết à?
Cư cũng đã nói rất hay, rất thuyết phục là sẵn có
các mối quan hệ với các quan chức địa phương và biết các cửa để chạy chọt, luồn
lách!
Vì nể và vì họ đã chơi thân với nhau từ bé, nên Khải
rút hồ sơ về đưa cho Cư.
Thế là sau hơn hai mươi năm Khải tự thân vận động,
đến tháng 12 năm 2013, Cư vào tiếp quản hồ sơ, cùng bàn bạc và chạy “tiếp sức”
với Khải.
Chạy đôn, chạy đáo, luồn lách khắp các ngóc ngách,
cũng phải mất mấy năm nữa để đi đến kết quả rất bèo bọt: đất mặt đường mà thành
phố quyết định đền bù một triệu rưỡi một mét vuông. Chưa chịu, lại kiện cáo đến
năm 2015, lúc bấy giờ đã quá chán trường và cũng đã quá mệt mỏi rồi, họ bàn
nhau là chấp nhận với giá chín triệu đồng một mét vuông đất. Một căn nhả với
diện tích tám nhăm mét vuông đất mặt đường mà chỉ được đền bù có tám trăm triệu
đồng.
Khải cắt ra cho Cư hai trăm triệu, tương đương với
25% tổng số tiền được lĩnh.
Năm sau thì thửa đất được đền bù cho tái định cư là
ba trăm triệu, Cư tự động trừ đi hơn một nửa là một trăm sáu chục triệu, tính
gộp lại cả hai lần Khải chỉ được cầm bảy trăm bốn chục triệu, Cư lấy là ba trăm
sáu mươi triệu tương đương với 33% (=1/3) tổng số tiền.
Khải đem tiền về không biết giải thích với vợ con ra
thế nào! Nói thật ra thì sợ vợ hiểu lầm bạn, mà không nói ra thì ấm ức trong
lòng thế nào ấy!
Cô con dâu Khải đem chuyện kể lại cho anh “Chuyên
viên” thì anh ta nói:
- Ông lão số nhọ gặp phải tay nghiệp dư lại không biết
việc, chạy không đúng cửa. Nếu vào tay anh ta thì lâu lắm cũng chỉ hơn năm và
với thửa đất ấy, nằm ở vị trí ấy thì ông lão cầm chắc trong tay từ hai tỷ trở
lên!
- Có thể là vậy, nhưng con cá mất bao giờ cũng là con
cá to, vả lại nói lại chuyện đã rồi cũng chẳng giải quyết được việc gì. Khải
đành an ủi con dâu như vậy.
Mãi sau khi biết mọi chuyện, vợ Khải mới kể lể với
chồng rằng:
- Ở đời, những người lương thiện như chúng ta chỉ là
con mồi cho thiên hạ. Ông cũng chỉ là một con mồi cho ông Cư bạn ông săn mà
thôi!
Ai cũng nói tiền chẳng phải là tất cả, nhưng tiền
lại là nguồn cơn sinh ra mọi chuyện, tiền là mục tiêu phấn đấu của hầu hết mọi
người.
Từ khi lấy ông rồi quen biết ông Cư, tôi thấy hai
người quá thân mật, quá quý hóa nhau, nên có nói gì ông cũng không nghe, không
chịu hiểu.
- Gần như cả đời chơi với nhau mà tôi vẫn không biết
hết được mọi việc! Khải ngập ngừng công nhận.
- Không phải chỉ có vụ cái nhà của các cụ để lại ở
Hải Phòng đâu, mà từ lâu, rất nhiều việc ông đã bị ông Cư dẫn dắt, ông ta chỉ
coi ông là công cụ để điều hành thôi!
- Thế sao tôi không biết!? Khải than lên với vợ.
- Cái vụ đi tiếp tế cho ông Hoàn phạm trọng tội hơn
chục năm trước, ông Cư không dám đến mà “gí” ông vào. Ông chẳng bị giam trên Sở
Công an Hà Nội suốt một ngày là gì? Khi ông Hoàn ở tù ra, đi thu thập tiền của
mọi người để buôn thuốc phiện, đến hỏi vay tiền mình lúc đang sửa nhà rất ngặt
nghèo, còn phải bán cả gói mỳ chính đi để góp nhặt. Hỏi lại ông Cư thì ông ta
cũng đánh lừa mình nói đúng là vợ Hoàn đang ốm nặng, phải vay tiền bạn bè để
đưa vợ đi mổ. Mình đã phải rứt ruột đưa cho Hoàn một triệu đồng tương đương với
ba đồng cân vàng lúc bấy giờ. Trong khi ông Cư cho ông Hoàn có hai trăm nghìn,
ông Lan cho ba trăm nghìn. Mà rồi ông Hoàn cũng lờ luôn tiền đã vay của mình
không trả nữa.
- Bà có nói tôi mới nhớ dần ra - Khải công nhận –
Tại sao sau hơn mười năm đi tù ông Hoàn dưới sự dẫn dắt, chỉ đạo của ông Cư đã
mất phăng bốn, năm cái nhà và gần như toàn bộ gia sản trị giá hàng nghìn lạng
vàng. Cuối cùng từ một đại gia, phải ra xóm bụi ở một gian nhà xây gạch xỉ có mười
mét vuông cạnh đường tầu hỏa, sống nhờ mẹt thuốc lá của bà vợ già ở đầu ngõ.
Rồi cả cậu Hiển anh em nối khố cùng sở Công an với ông Cư, đã lên ăn ở tại nhà
mình năm lần, bảy lượt, cũng quay lại trở thành kẻ thù không đội trời chung với
ông ấy. Lê Đình Liêm bạn học Ngô Quyền, Đinh Thế Tế bạn học Bách Khoa, phấn đấu
có tí chức vụ cũng đều được đưa “vào tầm ngắm” của Cư! Trần Đức Kỷ cũng không
thèm nhìn mặt Cư bao nhiêu năm.
Bà vợ bổ sung:
- Lại còn vụ khi mình để lại cái nhà ở Cầu Giấy cho
cô Thoa được bảy lạng vàng, sau khi sửa nhà trên Trương Định còn dư ra bao
nhiêu, ông Cư lên vay nốt về cho vợ buôn bán. Nhưng sau này khi con Trang nhà
mình ốm, xuống Phòng vay tiền để chữa bệnh cho con thì với lý do là vợ ông quản
lý rất khó lấy tiền ra cho mình vay, mà có vay cũng quy đổi ra Đô-la Mỹ, chứ
không cho vay bằng tiền Việt! Ông tự ái đã không vay nữa, ông còn nhớ không?
Rồi thật bất ngờ, vợ Khải một người đàn bà xuề xòa
lại triết lý:
- Phải có một thứ gì đó trong ông ấy đẹp đẽ lắm, to
lớn lắm, nó mới che lấp được mọi cái khác, che lấp cả tình cảm và lý trí!
Khải hỏi vợ:
- Bà nói cái ấy là cái gì mà lại có thể che lấp mọi
thứ đi như thế?
- Tiền!!!
Rồi thủng thẳng bà ta nói tiếp:
- Đến chị em ruột ông ta, cũng bị ông ta chi một số
tiền nhỏ để lừa ký vào một bản thỏa thuận là không đòi quyền thừa kế chia tài
sản của cha mẹ để lại!
Cái di chúc mà ông ta viết sẵn gửi ông, phòng khi
bất trắc ra đi đột ngột cũng chứng tỏ từ lâu ông ta coi tiền là “linh vật chí
tôn” rồi!
Nhưng cũng phải nói cho công bằng rằng ông ta cũng
“rất có năng khiếu chạy chọt, luồn lọt” chứ như người khác thì có muốn làm cũng
chẳng biết làm thế nào!
- Chẳng hẳn thế
đâu!
- Ông thì chẳng biết thế nào, chứ trong đời tôi thì thấy
ông ấy là một người có thực tài trong khoản này!
- Hải Phòng là nơi ông ta sinh ra và sống cả đời thì
nhất định là phải có mối quan hệ nào đấy, mà cũng toàn quen cái loại “cán bộ
vét đĩa”, lèm nhèm, chứ chỗ khác thì ông ta cũng chỉ là con muỗi kẹ!
Đấy như vụ chạy cho bà nhà văn Võ Thị Hương đòi lại
căn nhà 279 Cát Dài Hải Phòng. Bà ta sống vào Sài Gòn đã lâu nên khôn hơn mình, lại khách
quan, không có mối quan hệ nào với Cư nên đã khoán trắng 50/50.
Từ đầu bà ta đã chẳng phải động chân, động tay vào
việc gì cả, ngoại trừ làm cái giấy ủy quyền cho Cư. Thấy một đống tiền to như
thế thì ham, nhưng chạy đi, chạy lại từ Hải Phòng vào Sài Gòn, lại lên cả Hà
Nội tốn hơn trăm triệu tiền túi, “hộc tốc, đốc gan” gần chục năm trời mà chẳng thu
về được đồng xèng nhỏ nào cả!
Đằng này mình đã tự chạy hơn hai chục năm từ 1993
đến cuối 2013, Cư mới tham gia cùng mình có ba, bốn năm từ 2013 đến 2015 mà
thân thẩn lấy đến 33% thì thật là “càng quen, càng lèn cho đau”! Đúng thực ông
ta coi tiền là trên hết!
Cuối cùng Khải buồn buồn nói:
- Cũng chỉ có cách lý giải như thế mới “gỡ được hết
thắc mắc” trong lòng!
Nhưng tôi vẫn tiếc tình bạn chơi với nhau thân hơn
anh em ruột năm, sáu chục năm trời mà cũng bị đem ra đánh đổi bằng tiền, nỡ biến
bạn chí thân của mình thành con mồi để săn thịt.
(1) Tương truyền rằng khi bị
ba ba cắn thì khi nào có sấm nó mới nhả ra.
(2) Ha-vớt: Harvard University: một trong những viện đại học danh tiếng nhất thế giới
tháng 10 08, 2018
Thơ tặng bạn đến chơi nhà
Bạn đến thăm nhà
(Tặng Phạm Gia Chúc & Nguyễn Trọng Hùng)
Bạn đến thăm ta tận hẻm sâu,
Ngó đi, ngó lại, nói một câu:
- Ừ, ở thế này cho "thoáng đãng",
Sáng tác thơ văn nó mới "ngầu"!
Ngáp ngắn chán chê, lại ngáp dài,
Đứng lên, ngồi xuống, chẳng thấy ai.
Văn chương cũng "lỉnh" đi đâu mất!
Đến lúc phải tìm mấy củ khoai!
Hà Nội, 2018.
tháng 9 28, 2018
Tôi ra sách như thế nào
Hồi còn trẻ mới 16, 17 tuổi đang học lớp 10 cuối cấp Phổ thông
Trung học trường Ngô Quyền Hải Phòng, đã trót dại viết bài gửi cho một tờ báo
tiếng tăm nhất lúc bấy giờ, khốn nạn cho tôi là bài viết ấy lại được đăng. Sáu
tháng sau tờ báo này bị “đóng cửa” chỉ vì đã muốn “mở cửa” quá sớm. Tôi thì “không đủ
tư cách thi tốt nghiệp” và thế rồi phải đi đẩy xe than trong nhà máy Xi Măng mấy
năm.
Từ đấy tôi như con chim bị bắn trượt, sợ cả cành cây cong. Nhưng
vì cái tật cố hữu “bỏ thì thương, vương thì tội”, nên tôi vẫn âm thầm viết.
Lúc trên bảy mươi, thì tôi đã viết được khá nhiều. Nhưng cứ luôn “bụng
bảo dạ” rằng trước khi chết kịp dối dăng lại cho con cháu là phải đốt ngay đi,
kẻo mang vạ vào thân, mang vạ cho cả dòng họ!
Nhưng mà cứ y như cái duyên số nó vận vào thế nào ấy, một hôm Ngọc
Hoàn, bạn học hồi Phổ thông, làm đến Tổng Giám đốc một Công ty Xây dựng to nhất
Hải Phòng, đã “trót dại” cùng tay Sán Giám đốc Sở Lương thực rủ nhau bán thóc
dự trữ Quốc gia chia nhau.
Sau hơn mười năm ở tù ra đến tôi chơi để cảm ơn vì khi ngồi trong
song sắt ăn cơm nhạt với cá mắm thối, ngoài tôi ra thì chẳng có thằng chó chết
hay con bạn đểu nào lai vãng, mặc dù khi Hoàn đang làm ăn được, chúng đã bám
vào cậu ta khá đông.
Hoàn có chút năng khiếu về văn học, sau bữa cơm, ngồi uống nước vô
tình thấy tập truyện của tôi viết, xem vài truyện nói là tôi viết được, rồi xin
bằng được quyển sách ấy.
***
Một hôm Hiếu một cậu bạn trẻ, rất giỏi về Tin học đến chơi báo cho
biết là trên một trang Web(1) của nước ngoài mang tên: vantuyen. net có đăng
truyện ngắn “Đội Ngự” của tôi. Nó được xếp
trang trọng dưới tiêu đề Hội ngộ Văn chương Toàn cầu. Số bạn đọc mới vài tháng,
đã tới gần 6000 lượt người.
Bạn bè quen biết gọi điện đến chúc mừng.
Hỏi ra mới biết Hoàn có đem quyển sách của tôi viết về Hải Phòng, rồi
đưa cho ông em họ là Bùi Ngọc Tấn một nhà văn có tên tuổi đọc. Ông văn sĩ già
này có lẽ khoai khoái thế nào ấy, nên khi qua Mỹ thăm con, mang theo quyền sách
này. Rồi cũng chẳng hiểu sao họ tung lên trang Web trên (do một nhóm người thực hiện: Bùi
Ngọc Tô, Huệ Thu, Tuấn Nguyễn, Phương Nguyễn, Tú Phương, Tâm Thơ, Long Nguyễn,
Đăng Lê, Trần Thanh, Ngô Nguyễn Trần tại Hoa Kỳ - Pháp - Đức - Áo - Úc - Hoà
Lan - Việt nam, Email: buitongoc@gmail.com : Chuyên mục truyện ngắn)
Tôi chưa kịp hiểu ra thế nào, thì có một ông bạn làm Công an đến
bảo:
- Đừng vội mừng! Trong nước
chưa ai biết, chưa chỗ nào đăng mà truyện của ông đã được mạng ở nước ngoài
đăng lên một cách trang trọng, tức là có vấn đề đấy! Thử ví dụ thế này: Mấy
“xừ” An ninh mạng, chẳng may “liếc” vào trang Web này đúng lúc đang gặp chuyện bực mình, gọi ông lên cho mấy cái bạt tai thì mả bố ông chôn chỗ nào
cũng phải tông tốc khai ra hết.
Lúc đầu tôi cũng “chí phèo” cãi:
- Cùng lắm là chết chứ gì! Có khi được chết bên cạnh vợ con, người
thân, cũng đã là điều viên mãn lắm rồi!
Nói mạnh mồm vậy chứ trong lòng cũng lo lắm, vợ con cũng lo lắm,
cả nhà cũng lo lắm. Đi tù lúc nào không biết! Với cái thể trạng ốm o, với cái bản lĩnh nhút
nhát, với cái tính cách “vừa đái, vừa nhòm” của mình, tôi gày sọp đi như một
lão già bị suy nhược đã lâu ngày.
Vợ con lo sợ thì run rẩy, bạn bè cảm thông thì thương xót, hàng
xóm thì xì xào lo phải đóng góp phúng viếng cho đám ma tôi sắp tới.
Cũng may là “bọn đế quốc sài lang” mãi tận bên Mỹ, bên Đức ấy tuy
rất láo toét, không biết phép tắc là gì, chưa xin phép tác giả đã in phứa
truyện của một “công dân vĩ đại”, của một đất nước vĩ đại có chủ quyền trên thế
giới hẳn hoi! Tuy bọn mất dạy này rất mất dạy, nhưng chưa đủ lưu manh thêm
bớt một số câu vào để bôi nhọ, gây phương hại đến tổ quốc vĩ đại này, chứ không
thì có khi người “công dân vĩ đại” là tôi cũng dễ bị xích tay như bỡn!
***
Lo mãi, sau tôi nảy ra ý định hay là tìm đến một nhà văn lớn để
xin được góp ý.
Khi đã suy nghĩ rất kỹ và chọn lựa, tôi quyết định tìm đến nhà văn
Tô Hoài, người mà tôi đã yêu quý từ khi còn thơ bé với “Dế mèn phiêu lưu ký”
của cụ.
Để gặp được một nhà văn lớn, nổi tiếng, đã ở tuổi chín mươi, lại
rất sợ sự quấy rầy của đủ các loại người, thật không phải là dễ dàng chút nào.
Tôi không có ý định núp dưới bóng của cây đại thụ nào, lại
càng không muốn nhuộm cùng màu với bất kỳ ai và nhất là không có ý định ra
sách.
Tìm đến nhà cụ số 21 ngõ Đoàn Nhữ Hài, Trần Quốc Toản, tôi chỉ gặp
được cụ bà vợ nhà văn Tô Hoài.
Cụ bà nói:
- “Ông nhà tôi đã già rồi, lại lắm bệnh tật, nên không gặp bất kỳ
một ai. Muốn ông ấy góp ý, thì đưa vài truyện cho ông ấy đọc. Có khỏe ông ấy mới
đọc, vì thế cũng không thể hẹn trước được. Sau đó ông ấy sẽ góp ý nhiều hay ít là
tùy vào truyện viết thế nào và tùy vào ông ấy nữa.
Cỡ một tháng sau ông hãy quay lại đây để lấy góp ý”.
Tôi viết gửi cụ Tô Hoài vài dòng, có kèm thêm 5 truyện ngắn viết từ
1990.
Hà Nội, ngày 30, tháng 6, năm
2010.
Kính gửi nhà văn Tô Hoài,
Thưa bác,
Tôi là một cán bộ kỹ thuật đã nghỉ hưu,
có viết được một số truyện ngắn.
Biết bác là một nhà văn lớn, không có thời gian rỗi. Nhưng vì lòng kính
trọng và hâm mộ, tôi mạo muội làm phiền,
mong bác thông cảm.
Rất mong được sự góp ý và giúp đỡ quý báu của bác, để có thể viết tiếp.
Rất mong được một lần gặp bác.
Xin cám ơn và kính chào bác.
Tôi đã làm theo lời dặn dò của cụ bà cũng chỉ kém cụ ông vài ba tuổi, đi lại ba, bốn tháng vẫn chưa
được nhà văn góp ý.
Lần thứ tư, tôi sững sờ khi nghe cụ bà nói:
- Tôi có giục, nhưng lần này ông ấy bảo: - “Ông này tôi phải gặp”!
***
Cảm động nhất là khi
nghe thấy tiếng tôi hỏi thăm đến nhà, cụ đã lần tường ra đón tận cổng. Lần đầu
tiên được tiếp xúc với một nhà văn lớn, rất nổi tiếng ở P 108 - C3, Nghĩa Tân, nhà bà Đan Hà con gái đầu của
cụ, cũng đã trên sáu mươi là dược sĩ, tiện chăm sóc cho bố và cũng tiện để cụ
“lánh” những cuộc gặp gỡ không cần thiết!
Đó là một cụ già đã
chín chục tuổi, thấp bé, giản dị. Lần gặp gỡ đầu tiên này kéo dài tận hai tiếng
đồng hồ, đã vài lần tôi đứng dậy xin phép cụ ra về vì sợ cụ mệt, nhưng cụ đều giữ lại.
Trong chuyện trò cụ
kiệm lời, nói năng nhỏ nhẹ và đặc biệt là cụ nói chuyện rất có duyên, rất hóm
hỉnh, cực kỳ tỉnh táo và minh mẫn.
Trong khi trò chuyện,
cụ có nói:
- Nếu muốn viết và để
có thể trở thành một nhà văn thì nhất thiết phải có hai thứ:
* Thứ nhất phải giàu
vốn sống.
* Thứ hai phải giàu
vốn từ.
Tôi đùa hỏi lại cụ:
- Thưa bác, thế không
cần giàu tiền bạc ạ?
Cụ chỉ cười hiền
lành, nhìn tôi không nói gì cả.
Khi tôi từ biệt cụ ra
về, cụ nhất định tiễn tôi ra tận cổng.
Bắt tay từ biệt, cụ
nói thêm một câu:
- Ở ông, có cả hai
thứ đó.
- Thưa bác, bác nói
cháu có cả hai thứ gì ạ?
- Cái mà tôi nói lúc
nãy ấy. Hãy viết tiếp nữa đi!
Tôi dùng dằng, mãi,
mới dám thưa:
- Cháu cứ nghĩ là không
được gặp bác, nhưng hôm nay cháu thật may mắn được gặp và chuyện trò với bác.
Cháu xin phép hằng tháng được đến thăm bác, không biết như thế có làm phiền bác
không ạ?
- Ông không cần xin
phép. Muốn đến chơi với tôi thì phải gọi điện thoại trước. Bởi tôi thường xuyên
thay đổi chỗ ở.
Thế là từ đấy tôi
thường đến thăm ông cụ hiền lành, giản dị nhưng rất nổi tiếng ấy. Các lần sau
tôi thường đưa những tác phẩm nhỏ bé của mình cho ông cụ đọc rồi xin cụ góp ý.
Lúc mới quen cụ vẫn
gọi tôi là ông, bởi dù sao tôi cũng là một ông già trên bảy mươi tuổi rồi còn
gì nữa. Tôi sinh sau cụ mười chín năm.
Do rất kiệm lời nên
cụ chỉ khuyên tôi:
- Anh - sau này khi
đã thân mật, cụ đổi cách xưng hô gọi tôi bằng anh chứ không gọi là ông như các
lần trước nữa - nên đưa cho các tạp chí đăng bài, vừa có nhuận bút. Khi tập hợp
được nhiều nhiều, họ sẽ xuất bản mà mình không phải bỏ vốn ra in.
- Thưa bác từ mấy năm
trước, cháu đã đưa bài cho Tạp chí Văn nghệ ở 17 Trần Quốc Toản.
- Cụ thể là anh đưa
cho ai?
- Cháu được nhà văn
Ngân An nhận bài và trao đổi. Nhưng chỉ được bà ta khen, nhưng không thấy Tạp
chí đăng bài.
- Nếu thế anh đưa bài
sang cho Tạp chí Hội Nhà văn, ở 65 Nguyễn Du. Để tôi gọi điện thoại giới thiệu
anh với Tổng biên tập. Trước tôi đã từng làm việc ở đấy.
Tôi đến địa chỉ trên,
ông Tổng biên tập Nguyễn Trác đã ra tận cổng đón, vui vẻ mời tôi vào phòng làm
việc.
Cũng đi lại như đã đi
lại ở Tạp chí Văn Nghệ, năm lần, bảy lượt, cũng được khen là bài viết tốt, tuy
nhiên vẫn không được đăng. Lần thứ năm, thứ sáu gì đó ông Trác mới ngập ngừng
nói với tôi:
- Tạp chí chúng tôi còn
nghèo lắm. Để đăng bài cho hội viên trong hội Nhà văn cũng đã chật vật lắm rồi.
Bài của người ngoài Hội phải được đánh giá là rất xuất sắc mới chọn đăng. Chúng
tôi rất lấy làm tiếc. Anh thông cảm.
Ra về tôi hiểu là
những bài viết của tôi tuy được khen là tốt nhưng chưa “được xếp vào loại rất
xuất sắc” để được đăng trên tạp chí và vì “tạp chí còn nghèo lắm”!!!
Lần sau đến thăm cụ,
cụ có hỏi tôi là đã gặp ông Trác chưa? Tôi đành nói thật:
- Thưa bác không phải
cháu không lo được vài triệu đưa cho Tạp chí để đăng bài. Nhưng làm như vậy,
cháu cứ thấy nó hèn hèn thế nào ấy!
Ông cụ chỉ đăm đăm
nhìn tôi mà không nói gì cả.
Cuối cùng cụ khuyên
tôi:
- Chỉ còn cách đưa
cho nhà xuất bản. Nhưng như vậy sẽ tốn kém đấy. Tôi thấy anh không phải là
người có nhiều tiền, nhưng phải cố gắng vậy thôi. Thời tôi còn khỏe đi làm, thì
nhà xuất bản có hỗ trợ cho tác giả sách mấy chục phần trăm. Nhưng bây giờ không
biết có còn chế độ này nữa không?
Tự nhiên tôi thấy yêu
mến cụ già tốt bụng này biết bao. Cứ suy từ cụ mà ra, là một nhà văn nổi tiếng
với bao nhiêu giải thưởng lớn của nhà nước và của cả quốc tế, đi nước ngài trên
chục lần, mà đến thăm cụ quan sát thì chung quanh cụ chỉ toàn sách là sách,
sách nhiều vô kể. Một bộ bàn ghế xuềnh xoàng để tiếp khách, một cái bàn viết
nhỏ quay mặt ra cái cửa sổ và một vỉa hè vắng vẻ, một cái đèn bàn rẻ tiền và
một cái quạt cây cũ kỹ. Bên trong phòng ngủ có một cái giường nhỏ và một cái
ti-vi cổ, đít lồi.
Hà Nội vào mùa hè có
những hôm nóng đến ba tám, ba chín độ, mà chỗ ở một danh nhân không thấy có một
cái điều hòa!
Một số người nói với
tôi:
- Có khi cụ không
chịu được điều hòa nên không lắp.
Có người còn ác ý:
- Có khi ông cụ “đóng
kịch” đấy!
Tôi thì nghĩ khác.
Một người như cụ tuổi đã trên chín chục, gần đất xa trời rồi còn “đóng kịch”
thì đóng để ai xem? Mà đóng kịch vì mục đích gì cơ chứ! Để tỏ ra đặc biệt khác
người, để nổi tiếng à? Cụ đã chẳng phải chạy trốn “cái sự nổi tiếng” rất vất vả
đó sao!
Có lần cụ đã nói với
tôi:
- Nghề viết văn không
làm giàu được. Muốn làm giàu thì đừng viết văn!
Tôi cũng hiểu rằng viết là cái nghiệp. Nó đã vận vào thân, gỡ cũng chẳng
ra. Mà gỡ ra rồi để làm vương, làm tướng gì cơ chứ? Kinh doanh làm giàu à? Hay
phấn đấu để trở thành “đầy tớ của dân”!
Trong lời tựa quyển sách đầu tay tôi viết:
Ai cũng chỉ có một cuộc đời.
Vài chục năm trong cuộc đời ấy thì viết
cũng là một cuộc chơi.
Đã bước qua cái ngưỡng của tuổi bảy
mươi, tôi mới dám viết, phải chăng là quá muộn mằn?!
Nhưng như người xưa đã dạy: “Muộn còn
hơn không!”
Viết, với tôi giờ đây là một nhu cầu tự
thân. Viết cho mình, cho bạn bè, cho người nào muốn đọc và cũng bởi vì khi mà
tuổi trời sắp hết, trí lực cạn dần, không viết thì còn biết làm gì nữa!
Có điều gì làm người đọc chưa vừa
lòng, cúi xin rộng lòng tha thứ.
***
Di bút của nhà văn Tô Hoài, tháng 09 năm 2012, hai năm trước lúc cụ đi xa.
***
Cuối cùng thì cũng phải vay mỗi nơi một ít để xuất bản tập truyện đầu tay
chỉ gồm có ba mươi truyện ngắn.
Nói vậy không phải là để kế khổ đâu.
Bởi bây giờ “Văn hóa Đọc” không còn được coi trọng nữa. Người ta
có rất nhiều cách để đọc:
- Trên
mạng xã hội.
- Trên
Iphone thông minh.
- Trên
Ti-Vi.
- Thậm
chí chỉ là trên một cái đài bán dẫn nhỏ xíu.
- ...
Thuận tiện, lại không
mỏi mắt, đã có người đọc cho nghe rồi, vừa đỡ tốn tiền mua sách, đỡ tốn thời
gian, lại không phải mang sách đi lại thêm phiền toái...
Thành ra sách in ra
chỉ để biếu bạn bè thân. Tôi cũng chỉ dám in có 400 quyển mà vợ chồng đã phải “đi
nhẹ, nói khẽ, cười duyên” rồi.
Tuy nhiên bù lại cũng
có vài mẩu chuyện vui và đáng nhớ phết:
· Có một ông văn sĩ già tận Sài Gòn, nhà văn Xuân Hồng được ông bạn
tôi cho mượn sách đọc đã lọ mọ ra Hà Nội, tìm đến nhà để được gặp người viết,
ăn với nhau bữa cơm và chỉ để xin một quyền sách có chữ ký của tác giả.
· Một ông bạn học thời Phổ thông, ông Thành sau
trở thành một kỹ sư Địa chất tài ba, được giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1975, vì đã
có công lập bản đồ Khoáng sản Việt Nam tỷ lệ 1/500.000.
Ông này được tôi biếu một quyển truyện, sau đó gặp tôi nói:
- Truyện mày viết tao xem thích, nên đưa cho thằng Minh đạo diễn số một của Việt Nam mượn đọc. Xem xong nó nói: Truyện “Đội Ngự ” viết hay, tao thấy nó còn sâu sắc hơn truyện phim hay nhất của tao. Tiếc rằng không thể dựng thành phim được bởi nội dung không phù hợp với hiện tại!
Ông này được tôi biếu một quyển truyện, sau đó gặp tôi nói:
- Truyện mày viết tao xem thích, nên đưa cho thằng Minh đạo diễn số một của Việt Nam mượn đọc. Xem xong nó nói: Truyện “Đội Ngự ” viết hay, tao thấy nó còn sâu sắc hơn truyện phim hay nhất của tao. Tiếc rằng không thể dựng thành phim được bởi nội dung không phù hợp với hiện tại!
· Có hai ông người Hà Nội đi Mỹ từ 1975, nay đã trên 80 tuổi về nhà
cô em gái cạnh Chợ Mơ thấy có quyển “Đội Ngự” ở đầu giường bèn bảo đứa cháu mua
hộ mấy quyển để đọc và làm quà cho bạn bè bên Mỹ. Các ông ấy nói ở bên kia các
ông đã đọc truyện này trên vantuyen. net thấy ưng, nên muốn mua bằng được.
Cô cháu gái mò mẫm
thế nào đã tìm mua được mấy quyển mãi tận Giảng Võ. Khi biết truyện tôi in
không ký gửi ở đâu cả, mấy ông bạn bực mình lắm, bàn là phải kiện bọn in sách
lậu, nhưng mấy ông khác lại nói:
- Có mà “con kiến mà kiện củ khoai”! Xét đến cùng nếu đã là người
Việt Nam thì mấy ai không biết nói dối và ăn cắp vặt! Trong xã hội này, muốn đi
tìm công bằng, cố đi tìm chân lý, nếu không phải người điên thì cũng là người
chập cheng!
Một ông an ủi nói:
- Như vậy là sách của bác cũng còn có người muốn đọc. Mà sách in lậu
với sách in chính thống có khác đếch gì nhau! Chỉ có điều là bác không thu được
xu nào cả!
***
· Có một vị Tiến sĩ Văn học, ở tận bên Đức viết một bài dài về “Đội
Ngự”:
"Những người quanh ta"
08-08-2012 | 04:05
Tập sách gồm 30 truyện ngắn - ở mỗi truyện hiển thị một vài nhân
vật mà ta thường gặp trong cuộc sống qua nhiều thập kỷ nay. Mỗi nhân vật có
hoàn cảnh, thân phận, phẩm chất và tính cách riêng.
Đó là đội Ngự (“Đội Ngự”, tr.5 – được lấy tên đặt cho tập sách), là lính bảo
hoàng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, trong khi, cô Mai – vợ anh lại là
xã đội trưởng, phụ trách đội du kích chống càn, đánh đồn rất anh dũng. Địch bắt
được Mai và chúng biết rõ Mai chính là vợ của Ngự. Tên tây lai đồn trưởng gọi
Ngự đến để hai vợ chồng nhận nhau, từ đó, hy vọng Mai sẽ khai báo tất cả cơ sở
bí mật của ta. Mai đưa mắt làm tín hiệu cho Ngự để họ không nhận nhau là vợ
chồng và khước từ mọi yêu cầu của chúng. Tên đồn trưởng đưa khẩu súng lục cho
Ngự ra lệnh cho Ngự bắn chết vợ. Ngự bàng hoàng, không thi hành lệnh. Một lần
nữa, Mai lại đưa mắt nhìn Ngự, như năn nỉ “anh cứ bắn em đi; ở trên trời cao
kia em hiểu anh và tha thứ cho anh!”. Trong khi đó, tên đồn trưởng la hét, giục
giã Ngự làm cái việc mà ai trong hoàn cảnh ấy cũng không chịu nổi. Mai lại đưa
mắt nhìn Ngự như ra lệnh – một mệnh lệnh còn hiệu lực hơn cả mệnh lệnh của tên
đồn trưởng. Khẩu súng trong tay Ngự khạc ra tiếng nổ. Máu từ ngực Mai bắn ra
tung tóe, cô ngã gục, Ngự cũng ngã xuống theo vợ. Sau cơn bàng hoàng, Ngự nâng
vợ lên, anh gục xuống, lịm đi! “Sau khi chôn cất Mai, anh chỉ còn lặng lẽ như
một cái bóng. Anh không nói gì và cũng không ai dám nói gì với anh. Anh sống
vật vờ, câm lặng và đôi khi thấy anh ngước lên trời như đang tìm kiếm ai ở đó”
(tr.19).
Đó là cô Lanh (“Cái vỏ”, tr. 21) góa chồng từ khi 18 tuổi, mọi đòi hỏi ham muốn
dục tình bị nén lại qua lao động như trâu húc mả, khiến cho các nhà lãnh đạo,
quản lý khâm phục, rồi bồi dưỡng Lanh trở thành anh hùng lao động. Khi trở
thành anh hùng lao động, Lanh lên chức như diều, trong khi ham muốn dục tình
không thể nguôi ngoai, nhưng lại muốn giữ mình, nên cô thầm kín quan hệ, có khi
với một nam nhân viên cấp dưới, có khi với chàng trai giúp việc trong nhà. Có
thai nhiều lần, nhưng vì chức cao quyền trọng, nên cô đều phá thai. Thế rồi,
đến một lần chuyện phá thai không trót lọt, Lanh bị phát hiện và bị kiểm điểm,
rồi bị thi hành kỷ luật, xuống “phụ trách” trại chăn nuôi. Thân bại, danh liệt,
cô ốm đau rồi chết trong một đêm mưa buồn. Nhân vật trong truyện đối thoại với
Lanh giúp người đọc thấy bản chất con người Lanh: “Bản chất chị không phải là người
xấu...Nhưng chị bị người ta biến thành một người khác, được bọc một cái vỏ hoàn
toàn không phù hợp với con người thực của chị... Xung quanh toàn bọn tay chân
nịnh bợ và vì thế chúng đã biến chị thành quái vật...Phải chăng do luyến tiếc
cái vỏ hào nhoáng kia mà chị đã không gớm tay hạ thủ chính con mình đẻ ra.”
(tr39).
Đó là Ngát (“Chàng gàn” – tr.103) làm công việc kiểm tra chất lượng công trình
ở một công trường nọ. Với công việc ấy, nếu anh làm qua loa, xí xóa cho
các đội xây dựng bớt xén nguyên vật liệu và làm ẩu, thì anh tất yếu được nhận
những khoản “thù lao” hậu hĩnh. Nhưng, anh đã làm ngược lại, nên không những
túi rỗng mà còn bị chê là gàn. Cũng bị chê là gàn, khi anh thẳng thắn đấu tranh
chống lại những nếp nghĩ, những việc làm sai trái ở công trường mình. Nhiều
người không chỉ chế giễu Ngát là gàn, mà còn coi anh là cám hấp, là chập
mạch, vì anh nhường suất nhà của anh - do cơ quan phân - cho người khác, trong
khi hai vợ chồng anh và đứa con nhỏ đang ở nhờ dưới cái mái Tam quan vẻn vẹn gần
ba mét vuông của một ngôi chùa. Người ta gọi Ngát là chàng gàn, chàng hấp,
nhưng anh ý thức và tự hào về những điều anh nghĩ, những việc anh làm. Cũng
vậy, vợ anh cũng ý thức và tự hào về chồng mình, Chị tâm sự với anh: “Nhiều
người bảo anh là gàn, là hấp, nhưng với em, anh là một người đàn ông tuyệt diệu
nhất...” (tr.123).
Đó là Liên (“Liên”, tr.130) có một người chồng nói chung là
tốt. Tuy nhiên, vì quá ham mê đọc sách đến mức gần như quên mình có vợ. Lời một
nhân vật kể về cuộc sống hôn nhân của vợ chồng Liên: “Bây giờ chúng nó vẫn còn
rất thương nhau. Nhưng “có ở trong chăn mới biết chăn có rận”. Nó bảo anh ấy cứ
đều đặn một giờ sáng trở dậy đọc sách đến bảy giờ. Lục cơm nguội, có thì ăn,
không thì thôi, sau đó lặng lẽ dắt xe đi làm đến tối... Ngoài sách vở thì anh
chẳng chú ý đến cái gì nữa... Nó còn bảo, có khi cả tháng anh ấy chẳng nói với
nó một câu, hỏi nó một lời, cứ lặng lẽ như cái bóng... Thế rồi nó lẩn thẩn nghĩ
rằng, hay là giả vờ ngoại tình để anh ấy phải chú ý đến nó. Nhưng nào ngờ giả
hóa thật, thằng cha kia “cứ dính như keo, giằng không đứt, dứt chẳng ra”
(tr.138). Thế là Liên sa vào nhiều cuộc ngoại tình tiếp theo; vợ chồng ly dị,
Liên lấy một ông chồng hơn mình hai chục tuổi. Cô ốm yếu, rồi chết trong cảnh
buồn thảm.
Đó là vị hòa thượng trụ trì ở một ngôi chùa nọ đã có cuộc tình duyên trắc trở
từ thời trai trẻ (“Báu vật”, tr.180). Chàng trai ấy khỏe mạnh, đẹp trai, nhưng
nhà nghèo và cô gái xinh xắn, nết na con nhà phú hộ giàu có yêu nhau, nhưng họ
không lấy được nhau. Nàng đi lấy chồng; chàng xuất gia, lên chùa xuống tóc từ
đó. Rồi một chiều mùa đông, có một cậu trai đến gặp hòa thượng mang theo một
chiếc hộp gỗ nhỏ cũ kỹ dâng cho hòa thượng. Hòa thượng mở hộp hộp gỗ ra, thì đó
là một con trâu đất mà thuở thiếu thời, hòa thượng đã nặn và tặng người yêu
mình và cũng chính là người mẹ của cậu trai kia. Trước khi qua đời, người mẹ
tội nghiệp ấy giao cho con cái hộp gỗ với con trâu đất và dặn con đến chùa dâng
tận tay hòa thượng. Mắt rưng rưng, hòa thượng ngắm nhìn, tay vuốt ve con trâu
đất; chào từ biệt chàng trai rồi đi vào phòng trong đóng cửa. “Hôm sau, đã muộn
không thấy nhà sư trở ra, người ta đẩy cửa vào thì thấy người ngồi thiền ngay
ngắn trước ban thờ Phật nhưng đã viên tịch từ lúc nào, hai tay vẫn trân trọng
ôm chiếc hộp gỗ nhỏ cũ kỹ như một báu vật” (tr.189).
Chỉ qua năm truyện ngắn trong tập, bạn đọc đã gặp quanh ta những con người muôn
vẻ cuộc đời mà phần đông là hoàn cảnh, số phận bất ổn của họ.Với cả ba mươi
truyện ngắn của Trần Quốc Khánh bạn đọc sẽ còn gặp nhiều hơn thế nữa những nhân
vật, mà thực chất là những người quanh ta với mọi dạng vẻ như chính cuộc sống
vậy đã tồn tại qua nhiều thập kỷ và còn hiện hữu cả đến hôm nay.
Hình thức thể hiện của truyện ngắn Trần Quốc Khánh theo lối truyền thống; rất
chú ý xây dựng tính cách nhân vật trung tâm, khiến người đọc cảm thấy các nhân
vật trung tâm ấy càng thêm gần gũi, như họ là những người quanh ta vậy!
Mai Thanh
Họ tên: Mai Thanh - Tiến sĩ Văn học Tốt nghiệp tại CHLB Đức
Giới tính: Nam
Ngày sinh: 05/12/1952
Địa chỉ hiện tại: Bộ Thông tin và Truyền Thông
Liên hệ: Điện
thoại: 01248355940 Email: maithanh52@gmail.com
· Ít năm sau, một số bạn gọi điện đến giục tôi:
- Xuất bản tập thứ hai đi, chứ nhà văn, nhà viếc gì mà lại chỉ xuất bản có mỗi một tập truyện!?
- Xuất bản tập thứ hai đi, chứ nhà văn, nhà viếc gì mà lại chỉ xuất bản có mỗi một tập truyện!?
-
Cố đợi ít bữa nữa, bán được nhà, mình sẽ đưa xuất
bản ngay!
-
Ôi! Cậu thật là đồ nhà văn giẻ rách!!!
-
Nếu nhà văn mà không giẻ rách, thì ai sẽ là giẻ
rách đây???
Hà Nội, 2018.
(1)
Web :
World wide web viết tắt là WWW: mạng toàn cầu
Tri kỷ
1.
Tôi với hắn cùng được xếp là hạng thợ nhọ
đít(1), ngồi bệt xuống đất rồi. Xấp xỉ tuổi nhau. Biết nhau từ lúc còn bú mẹ. Luôn
cặp kè nên bên ngoài ai cũng tưởng là hợp nhau lắm, nhưng thực tế lại hay “cắn nhau như chó với mèo”.
Bọn tôi ở chung với nhau trong một gian
kho cũ mượn tạm của người quen, thành ra cũng tiện. Chủ thì đỡ mất tiền thuê
người trông kho, mình lại không tốn tiền thuê chỗ ở, tháng tháng cũng tiết kiệm
được ít tiền tiêu vặt.
Ăn cùng mâm, ngủ cùng giường nhưng nghĩ
ngợi thì chẳng mấy khi giống nhau. Các cụ thì hay nói chữ theo kiểu của mấy ông
đồ gàn là “đồng sàng dị mộng”(2). Nhưng rồi đâu cũng vào đấy, bởi có việc gì to
tát đâu mà xảy ra xung đột cơ chứ!
Công việc, ăn ở thì ngày nào cũng như
ngày nào, đến nỗi gặp nhau không buồn nhìn, nhưng vắng nhau lại thấy thiêu
thiếu!
Hắn đã đoảng lại vô
tâm, tôi thì hay soi mói rồi suy diễn.
Có lắm cái chúng tôi
vặc nhau chỉ vì những chuyện không đâu:
- Làm đéo gì mà cứ
rình mò đằng sau người ta như thằng ăn trộm thế?
- Không rình thì làm
sao biết cậu đang định giở trò gì!
- Đồ cám hấp! Thế cậu
biết tớ đang định giở trò gì?
- Chẳng làm cái đéo gì sất!
2.
Sáng sớm hôm ấy hắn lảng ra chợ mua bánh
cuốn về ăn. Lúc hắn bảo tôi ra ăn. Vì không bảo trước nên tự ái tôi nói:
- Tớ không ăn.
- Sao không ăn?
- Không ăn tức là không ăn!
- Không ăn thật à? Thế thích ăn cái gì?
- Bánh đúc!
- Mai mua bánh đúc.
Hỏi thế rồi hắn ngồi tem tẻm một mình
đánh hết gần nửa cân bánh cuốn và hai lạng chả béo ngậy. Hắn nhơn nhơn tự đắc,
nhưng sau đó có vẻ đầy đầy, cứ ợ lên, ợ xuống, thỉnh thoảng lại liếc trộm về
phía tôi như muốn nói gì đấy nhưng thấy tôi thờ ơ, nên cuối cùng hắn cũng không
hỏi nữa. Đến trưa tôi nấu cơm có canh chua là món hắn thích nhất thế mà khi gọi
ra ăn, hắn chẳng nói, chẳng rằng ra đầu ngõ, ngồi xổm xem trẻ con đánh đáo.
Mãi tối, hắn mua mấy củ khoai luộc về bảo
tôi ăn.
Tôi làm bộ vô tình:
- Bỏ cơm chiều, tối lại mua khoai về ăn
là sao?
- Thích thế!
- Này, mai cậu lại mua bánh cuốn về, tớ
sẽ pha nước chấm thật ngon có cả rau thơm Láng nhớ! Tôi tảng lờ.
- Muốn ăn thì mua mà ăn một mình!
- Sao thế!
- Chả sao với giăng gì sất!
3.
Đêm qua đã khuya đi đâu về, hắn gọi
toáng lên từ ngoài ngõ là nhà có khách.
Tôi dậy thì thấy vợ hắn từ quê ra thăm. Tay
xách, nách mang, dưa cà, khoai gạo và cả hai đứa con nhỏ, đứa lẫm chẫm đi, đứa
còn ẵm ngửa.
Hắn thì vui ra mặt, đon đả, tíu tít đun
nước pha chè.
Tôi uống với vợ chồng hắn chén nước,
ngồi một lát rồi biết là chẳng còn cách nào khác, phải tìm chỗ mà ngủ để nhường
cho gia đình hắn gian kho nhỏ với cái phản nhỡ độc nhất.
Hắn có vẻ ái ngại hỏi lấy lệ:
- Đi đâu đấy, bây giờ đã khuya rồi?
- Khuya cũng phải đi chứ biết làm sao?
- Ừ thôi, thông cảm nhé!
Sáng sau hắn ra sân thấy tôi nằm trên
bãi cỏ tít ngoài ngõ, đầu gối lên gốc cây xà cừ.
Hắn cởi áo đắp lên người tôi. Tôi lờ đi
như không biết.
4.
Hắn làm phụ nề trong một công trường xây
dựng, ở đấy có tay tổ trưởng đã đểu, hay quịt tiền công thợ lại dâm dê, cứ sểnh
ra một cái là lại rình nhìn trộm mấy đứa con gái tắm chuồng trong con mương gần
đấy. Hôm bị bọn nó phát hiện, đuổi đánh. Chẳng hiểu mô-tê răng-rứa gỉ, hắn cũng
cứ phăm phăm xông ra can gián. Bị nửa viên gạch vào đầu, máu me lênh láng,
nhưng vẫn cố nghển cổ lên cãi:
- Sao lại vô lý thế! Nó nhìn thì có mòn
tí nào của chúng mày không?
- Thế nếu vợ cậu tắm có đứa nhìn trộm
thì sao?
- Đập cho què luôn!
- Thế thì chỉ của mình mới giữ à?
- Tất nhiên!
- Chả trách vỡ đầu cũng phải!
5.
Một chiều khi tôi đi làm mãi tận làng bên
về hơi muộn, tới nhà thì thấy có một bà lão ăn mày đang ngồi ăn cơm cùng hắn.
Tôi hỏi:
- Quen
à?
- Không.
- Thế
làm sao lại đưa về đây?
- Thấy
đi xin ăn mà nói không ra hơi. Hỏi mới biết là hơn hai ngày rồi không có miếng
gì vào bụng.
- Đêm
nay để bà ấy ngủ ở đâu?
- Trên
phản chứ còn đâu nữa! Tớ mới cậu nằm ngoài hiên, đã có mấy vỏ bao xi-măng tớ mang
ở công trường về.
Tôi nhìn hắn hơi ngỡ ngàng, nhưng trong
lòng thì chấp nhận.
- OK!
Sau đó hắn bàn bạc với tôi hay là để bà
lão ở lại đi chợ nấu cơm cho hai thằng!? Mình chỉ việc đi làm về tắm táp xong
là đã có cơm ăn, chẳng sướng hơn hay sao?! Tôi đồng ý ngay. Nhưng còn chỗ ở cho
bà lão thì loay hoay mãi mới giải quyết được.
Thời gian sau mới biết bà ta ở ngay làng
bên, chẳng may gặp cảnh về già còn bất hạnh, có thằng con mất dạy nghiện hút,
lấy vợ rồi đuổi mẹ đi ăn mày.
Hắn cay lắm, tìm sang nhà bà lão gây sự
bị vợ chồng thằng mất dạy kia đánh cho một trận nhừ tử.
Tôi đùa hắn:
- Tưởng thời Séc-văng-tét mới có
Đôn-ki-hô-tê(3), thế mà không ngờ Đôn-ki-hô-tê lại ở cùng mình, ăn cùng mình,
ngủ cùng với mình đấy!?
6.
- Ngoài xóm có người khoán làm vệ sinh
vườn tược cả cái trang trại rộng lắm.
Hắn về rủ tôi cùng làm. Tôi đồng ý, hắn
nói luôn:
- Tớ
tìm ra việc, cậu phải trả thù lao và chênh lệch.
- Được
rồi, thế bao giờ làm?
- Ngay
ngày mai.
- Thù
lao 10% cộng chênh lệch 10% nữa, tức là tổng tiền có bao nhiêu, tớ 60% còn cậu
40%.
- Tức
là cậu gấp rưỡi tớ?
- Ờ,
đúng rồi!
- Ăn
đéo gì mà ăm lắm thế?
- Có
làm không, để gọi thằng khác!
- Đéo
làm!
- Thế
rút xuống còn 45% - 55% được chưa?
- Rồi.
7.
Bình thường hắn ăn khỏe, làm không khỏe
hơn tôi là mấy, nhưng cũng chẳng yếu hơn nhiều. Được cái chịu khó, chăm đi chợ,
nấu ăn, phải cái hay ăn quà vặt ngoài hàng. Có lần có người quen đến chơi giữa
chừng, tôi thấy hắn đã đi chợ từ sáng rồi, sợ thiếu thức ăn, nên đi ra định mua
thêm cái gì đó, thì thấy hắn đang ngồi ở hàng bánh đúc, đánh tem tẻm hết ba,
bốn tấm ngon lành. Tôi bảo mua thêm cái gì đó để đãi khách, hắn gật đầu rồi vẫn
ngồi ăn tì tì.
Tôi nói:
- Ăn
nhiều thế thì tí nữa ăn làm sao được cơm?
- Không thành vấn đề (In ni a pa đờ Prô-blem)(4)
- Hắn quen mồm thêm cả tiếng Pháp vào. Làm tôi chợt nhớ ra là hắn đã tốt nghiệp
Trung học Giao thông từ hai chục năm trước. Lúc hắn mới mười chín tuổi đã được
đề bạt là Phó ty Giao thông. Một hôm hắn nóng tiết đánh ông Trưởng ty một bạt
tai rõ đau, chỉ vì ông này đã bắt nạt một nhân viên cấp dưới, rồi phủi quần bỏ
ra bên ngoài làm tự do, can ngăn kiểu gì cũng không được.
Nghĩ đến đó vừa thấy là lạ, vừa nể nể thành
ra ít để ý đến nhược điểm của hắn nữa. Vì vậy chúng tôi vẫn là một đôi tuy
không hoàn hảo, cũng vẫn là một đôi gắn bó hơn hai chục năm rồi!
Làm gì cũng cùng, ăn ở cũng cùng, tuy
thi thoảng cũng hục hặc tí chút.
8.
Chuyện cũ kể lại, hắn tát lão trưởng ty,
rồi phủi đít quần bỏ về, thì lúc ấy cán bộ kỹ thuật còn ít lắm, còn quí lắm. Cụ
Giám đốc Nha Giao thông Bắc Việt, Đảng viên Quốc dân đảng duy nhất có chân
trong Quốc hội từ khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới được thành lập năm
1946, mới phải lọ mọ đến nhà mắng cho hắn một mẻ, rồi bảo:
- Bây
giờ anh có hai lựa chọn:
a-
Một
là đi tù vì tội hành hung cấp trên và tự ý bỏ việc nhà nước.
b-
Hai
là trở về cơ quan đi làm ngay ngày mai!
Tất nhiên là hắn chọn cách thứ hai.
Người ta phải đổi “xừ” trưởng ty cũ đi chỗ khác cho êm chuyện. Vì vậy khi về
hưu, lương hắn khá cao, người ta luôn lấy cái mốc cao nhất trong thời gian công
tác để tính lương hưu, mà bét ra hắn cũng đã từng là Phó trưởng ty, chứ có phải
cứt đâu. Thằng em tôi tốt nghiệp Bách khoa mười năm trước mà lương chỉ bằng già
nửa lương hắn. Tuy lương hưu cao so với người khác thế vẫn không đủ nuôi vợ
con, nên hắn phải tìm việc làm thêm.
Ngoài cái kỹ thuật làm ở bàn giấy, hắn
chỉ còn biết mỗi việc là đi làm phụ vữa.
Bình thường hắn là người phóng khoáng,
ăn hôm nay không lo đến ngày mai. Nhưng khi hết tiền cũng vẫn đàng hoàng chứ
không sút mút như người khác.
Hôm nọ, có người từ quê ra thăm, hắn dám
sang hàng xóm vay tiền mua đồ ăn hết phăng cả tháng lương. Mấy hôm sau thấy tôi
đi làm xa về, hắn mừng lôi chai rượu ra, rồi lục tung cả chạn vẫn không còn có
cái gì đáng đem ra làm mồi nhắm. Lúc sau hắn cười hề hề bê bát tôm rang ra cùng
ngồi nhâm nhi với nhau.
Thấy cái cung cách ấy nó vừa “chân chất nhà
quê”, lại vừa đáng yêu thế nào ấy.
9.
Năm trước có ông anh rể hắn đã từng làm
Tỉnh trưởng một tỉnh cỡ trung ở Miền Nam thời Việt Nam Cộng hòa từ Mỹ về thăm. Ông
ta mở va-li quần áo ra bảo hắn lấy mấy bộ mà dùng, hắn lắc đầu từ chối, nói là
làm lao động dùng quần áo này không tiện. Sau ông ta cứ nài nỉ mãi, hắn nhặt
một bộ, mà chiếc áo sơ-mi có đôi khuy măng-sét(5) mạ vàng long lanh rất đẹp.
Lúc ông ta về, tôi bảo:
- Đem
bộ khuy này ra hàng vàng mà bán chắc được khá tiền!
Hắn cười bảo:
- Đồ
nhựa mạ thì hàng may nó cũng đấm thèm vào, nói chi đến hàng vàng!
- Nhựa
mạ à? Tôi ngạc nhiên hỏi.
- Cầm
lên xem thì biết! Tớ nể lấy một bộ cho ông ấy đỡ nghĩ, cứ mời mọc nhiệt tình mãi,
phiền!
- Thì
ra vậy!
10.
Hôm rồi tôi bị cúm rất nặng, gần như mê
man, bất tỉnh. Hắn chạy đôn, chạy đáo chăm sóc làm tôi thấy thật cảm động. Mấy
hôm sau đã đỡ mệt tôi mới được bà lão giúp nấu cơm cho biết là hắn đã phải vay
mượn khắp nơi mua thuốc men và cái ăn bồi dưỡng cho tôi.
Thế mà lúc tinh tỉnh tôi nói lời cám ơn,
không ngờ hắn nổi cáu mắng nhiếc không tiếc lời.
Thật đúng câu:
“Ai ơi, mật ngọt chết ruồi, những nơi
cay đắng là nơi thật thà”.
Các cụ cũng có nói: “Bán anh em xa, mua
láng giềng gần” cấm có sai bao giờ!
Hà Nội, 2018.
(1)
Nhọ đít: Làm tự do, không có nghề chuyên
môn, gặp gì làm nấy.
(2)
Đồng sàng dị mộng: nghĩa đen là ngủ
chung giường, nhưng làm mộng khác nhau. Bên ngoài có vẻ gắn bó, nhưng tâm tư
chí hướng khác nhau.
(3) Đôn-ki-hô-tê: Don Quijote (tiếng Tây Ban Nha: Don Quijote de la Mancha / Don Quijote xứ Mancha là tiểu thuyết của văn sĩ Miguel de Cervantes
Saavedra (1547-1616).
(4)
In ni a pa đờ prô-blem: Il n’y a pas de problème:
không vấn đề gì (tiếng Pháp).
(5)
Măng-sét: Tay áo sơ-mi loại sang – Manchette (tiếng
Pháp)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)