tháng 11 28, 2015
Như tiên
Năm
anh em sàn sàn nhau rỗi rãi rủ nhau đi “phượt”(1). Tới một nơi phong cảnh tuyệt
đẹp, mót đi đái, đứng quay vào phía núi đái.
Đang
đái thì có một nàng trẻ đẹp như tiên đi từ xa tới nhìn thấy, hỏi:
-
Chào năm chàng trai, mọi người đang làm gì đấy?
-
Không biết sao mà còn hỏi?
-
Biết thì ta đã chẳng hỏi!
- Đái!
- Tức là làm gì?
- Đái, chứ còn làm gì nữa! Thế cô không đái bao giờ
à?!
- Không!
- Hay thật đấy, đến bây giờ mới nghe thấy có người
nói là không đái bao giờ! Thế cô là người hay là cái cây hả?
- Không phải là cái cây, mà ta là tiên!
- Thế tiên thì không đái bao giờ à?
- Không!
- Thật thế à?
- Thế đái là để làm gì? Các người hãy giải thích rõ
hơn, cho dễ hiểu có được không?
- Ăn, uống, sau khi tiêu hóa rồi thì phải thải ra.
Uống nước vào thì phải đái ra nước, gọi là đái. Ăn thức ăn vào thì phải ỉa ra
cứt, gọi là ỉa.
- Trong “cõi tiên” chúng ta, chỉ có nhận lễ phẩm của
Phật tử thập phương dâng lên cúng giàng, chứ không hề thải ra cái gì cả. Đấy,
các người có ai nghe nói là ở “cõi tiên” lại có chỗ để đái, để ỉa chưa?
- Hèn chi người ta ai cũng bảo ở “cõi tiên” chỗ nào
cũng thơm tho, không có chỗ nào thối tha, bẩn thỉu cả. Để được như vậy thì
trong “cõi tiên” ai cũng chỉ biết “nhận vào”, chứ không ai chịu “nhả ra” bất kể
là cái gì, kể cả các “cặn bã”?
- Chính xác! Thế trong “cõi người”, có nơi nào giống
như thế không?
- Có chứ! Trong xã hội loài người chúng ta, chỉ có bọn
cầm quyền “ăn trên, ngồi trốc” thì mới “xử sự” như vậy.
- Thế mọi người cho rằng bọn “ăn trên, ngồi trốc” ấy
giống như tiên chúng ta à?
- Giống gì cũng không quan trọng. Nhưng ở đời chỉ
biết “nhận vào” mà không biết “nhả ra”, kể cả cặn bã! Thì dân gian họ bảo rằng đó
là loại “ăn cả cứt, đéo cả ma”! Bọn đó không được ai gọi là người!
- Thế thì gọi bọn nó là gì?
- Chó!
Hà Nội,
2015.
(1) Phượt: Đi
chơi không có mục đích.
tháng 11 09, 2015
Học vẽ
Từ
hồi còn nhỏ, mới học tiểu học, tôi đã thích vẽ. Cứ sểnh ra là vẽ. Vẽ bất cứ ở
đâu, bất cứ chỗ nào. Một hôm ngồi học Vật lý, thấy trong sách giáo khoa có chân
dung nhà bác học Ga-li-lê(1). Tôi lấy giấy bút ra hý hoáy vẽ lại.
Chợt
tôi nghe thấy tiếng cụ Tính sát ngay sau lưng ghế:
- Cái
thằng này vẽ được đấy, giống và đẹp lắm, để tôi giới thiệu cho một người quen
là họa sỹ bậc nhất dạy cho. Biết đâu sau này thành tài cũng nên.
Cụ
Tính là bạn của bố tôi, hai cụ qua lại chơi với nhau từ hồi còn trẻ.
Tôi
quay sang nhìn bố. Nét mặt cụ không lộ ra vẻ gì. Có lẽ vì nể bạn nên chỉ ậm ừ cho
qua chuyện.
Thưở
nhỏ bị lưu lạc đến mười ba tuổi tôi mới được đi học. Bố tôi cho rằng chỉ nên
chuyên tâm vào học chữ. Còn lại các thứ khác đều không quan trọng và không nên
để ý.
Được
đi học, tôi rất cố gắng và vì đã lớn hơn các bạn, nên thường đứng nhất, nhì lớp.
Thấy bố đã yên tâm về chuyện học hành của mình, tôi tìm đến nhà cụ Tính để nhờ
cụ giới thiệu với ông thày dạy vẽ.
Cụ
Tính nhìn tôi, hỏi:
-
Bố cháu có đồng ý cho cháu học vẽ không?
-
Dạ, có ạ. Tôi nói dối.
-
Được, để bác dắt sang nhà ông Dư bên Cát Dài.
Tôi
học ở trường Ngô Quyền, phố Mê Linh nên qua phố Cát Dài chỉ có một đoạn. Vì vậy
sau giờ học ở trường, tôi sang đó học vẽ, cũng không xa là mấy.
Hôm
sau cụ Tính dắt tôi sang Cát Dài giới thiệu với thày Nguyễn Dư, một người đàn ông cao,
gày và rất đẹp, cũng cỡ tuổi cụ Tính và bố tôi.
Thày
đưa cho tôi một tấm bìa cứng, một tờ giấy vẽ và một cái bút chì, rồi nói:
- Con
hãy vẽ cái đèn dầu này để thày xem, nếu được thày mới nhận vào lớp học chính
thức.
Bức
tranh vẽ cái đèn dầu đầu tiên ấy, bây giờ tôi vẫn giữ gìn cẩn thận như một kỷ
vật quý báu.
Sau
khi được nhận vào lớp, tôi mới biết là làm sao có tiền để đóng học phí, tiền
mua các dụng cụ để học. Rất nhiều thứ chứ không ít, nào là giấy, bút, tẩy, bảng
gỗ cứng,..
Đúng
lúc tưởng là phải bỏ cuộc. Nếu nói với bố thì thế nào cũng ăn đòn vì chưa được
bố đồng ý cho học vẽ. Chả lẽ lại đi xin tiền cụ Tính?!
Nhưng
chẳng hiểu sao ở tôi, lần nào cũng vậy, cứ khi nào bị dồn vào chân tường thì
thế nào cũng có kẽ hở thoát ra được.
***
Học
được bốn, năm tháng vì tôi học hành tấn tới, tranh tôi vẽ đã được thày treo lên
bảng để khen và cho các bạn cùng xem. Rồi với sự ưu ái đặc biệt, thày đã không
lấy tiền học phí nữa mà còn cho tôi các vật liệu để vẽ đắt tiền như than(2),
phấn vẽ của Pháp, chì than,… rồi có lần tôi còn được cộng tác với thày vẽ
áp-phích(3) xi-nê(4) và các phim âm bản để quảng cáo.
Đến
khi học vẽ đến người thì quả là một thời kỳ thật sự khó khăn. Nhưng chúng tôi
đã được thày Dư dạy những phần cơ bản nhất là Giải phẫu học về cơ thể con
người(5). Từ xương, đến cơ, đến dây chằng. Ngón tay, ngón chân. Các chi tiết
nhỏ nhất đều được thày giảng giải cặn kẽ và bắt vẽ đi, vẽ lại nhiều lần.
Vì
thế sau này vẽ người chúng tôi thuộc từng tỷ lệ và không bị những lỗi sơ đẳng
như quần áo không bay lẹm vào xương như một số tranh của các họa sỹ đã tốt
nghiệp ở các trường chính qui vẫn phạm phải.
Đến
khi vẽ cả người, thì đầu tiên là vẽ khỏa thân. Trong các mẫu gồm thanh niên,
thiếu nữ, trẻ em, ông già,..Khó nhất là mẫu trẻ em, chúng không thể im lặng được
một lúc. Ngồi hay đứng cũng vậy, đầu tiên là mười lăm phút, rồi mười phút, rồi
tám phút, thế nào chúng cũng ngọ nguậy, thế là lại phải chỉnh sửa lại với dáng
ban đầu. Về sau rút kinh nghiệm chúng tôi lấy phấn để đánh dấu từng chi tiết
nên thời gian chỉnh sửa cũng nhanh hơn chút ít.
Háo
hức nhất vẫn là mẫu thiếu nữ. Lần đầu trong đời, bọn học sinh mới lớn chúng tôi
được nhìn thấy thiếu nữ khỏa thân, hầu như các học viên trong đó có tôi, cả
tuần không vạch được một nét chì nào lên giấy.
Thày
đã thông cảm và không một lời nhắc nhở.
Sau
quen đi, chúng tôi cũng đã vẽ được như các mẫu khác.
Chủ
nhật thày thường đưa chúng tôi đi vẽ phong cảnh ở các làng ven thành phố.
Có
lắm hôm chúng tôi tụ tập trước cửa, thày mới dậy rửa mặt, cạo râu, thành ra có
hôm vì vội thày chỉ cạo có một bên râu quai nón, còn lại một bên má vẫn xanh rì.
Nhiều
bức tranh vẽ hồi ấy tôi vẫn giữ được đến giờ. Màu sắc trong sáng, nét bút ngây
ngô, mà giờ đây khi tôi đã vẽ tranh bán cho người nước ngoài, vẫn không sao vẽ
lại được. Nó mang trong lòng cả không gian, thời gian, cả sự hồn nhiên của thời
thơ ấu, không bao giờ còn trở lại. Những kỷ vật đó đối với tôi vô cùng quý giá.
Sau
này đã có người mặc cả mua với giá cao, rất cao, nhưng tôi không nỡ xa nó. Cứ mỗi
lần tần ngần trước những bức tranh “ngây ngô” ấy, tôi như lại trở về với quá
vãng xa xôi, trong sáng và ngọt ngào.
Nhớ
nhất lần nhà hàng xóm giáp gianh rỡ mái ra lợp lại, thấy cả tập bản vẽ người
của tôi giấu ở đó. Vì tập vẽ có tên, nên họ mang sang trả.
Đi
học về đến nhà, thấy bố nhìn hằm hằm, hỏi xẵng giọng:
-
Của mày phải không?
Rồi
không đợi trả lời, cụ đã túm đánh tôi một trận nhừ tử.
Sau
đó cụ nặng nhọc, nói trong giận dữ:
-
Tao nuôi mày ăn học, mà sao mày lại đổ đốn ra thế này?
-
Con có làm gì đâu ạ, con đi học vẽ tại nhà thày Dư ở Cát Dài. Chính cụ Tính giới
thiệu con đến học. Đây chỉ là các bài vẽ tập của con!
-
Mày hãy nhìn lại xem mày vẽ những cái gì?
-
Các bài này học vẽ về người, ngoài bức vẽ thiếu nữ, còn có cả ông già, trẻ em
nữa mà.
-
Tao đã cho phép mày học vẽ chưa? Tao vẫn bảo là chỉ học chữ cho tốt cơ mà!
- Thì
ở lớp con vẫn học tốt!
-
Ai cho tiền mày đi học vẽ?
-
Anh Huyên ạ.
Hồi
ấy khoảng năm 1955 thì phải, thời điểm mà bà chị hai tôi chuẩn bị lấy chồng. Ông
anh rể tương lai đang ra sức lấy lòng cậu út, nên đã bỏ tiền ra để “bao trọn
gói” tiền học vẽ cho tôi.
Sau
khi kiểm tra kỹ rồi, cụ gọi đến nói là tháng tới sẽ cho tiền để tôi học vẽ.
Vài
năm sau, tôi đã vẽ vài bức tranh được thày Dư treo lên làm mẫu cho cả lớp. Bức
hoa Lay-ơn(6) khá đẹp thày treo đã lâu, khi có tranh mới thay thế, nó được hạ
xuống và thày nói với tôi là đem về nhà để giữ. Bức tranh đó tôi không dám ghi
tên. Mấy lần cụ Tính đến chơi thăm lớp cứ nhầm là tranh của thày vẽ, thành ra
sau thày lấy bút chì ghi tên tôi nho nhỏ ở phía dưới.
Đem
về tôi lặng lẽ đặt trên bàn chứ không dám khoe với bố.
Cụ
đi làm về giở ra xem, khen đẹp và bảo tôi treo lên cái khung giữa nhà. Hôm cụ
Tính đến chơi nhìn thấy tranh tôi được treo lên, phấn khởi nói với bạn:
-
Tranh thằng con ông vẽ, treo lên trông cũng đẹp ra trò!
- Nó
làm sao vẽ được như thế!
-
Ông thử nhin kỹ xem, chả tên nó ghi ở phía dưới thì tên ai đấy?!
Bố
tôi quay lại hỏi:
-
Sao tranh mày vẽ, mà không ghi tên rõ ràng?
-
Con sợ.
Cụ
không nói gì, nhưng thái độ của cụ đã “mềm” lắm rồi, chứ không còn “căng” như khi
phát hiện ra tập tranh vẽ người của tôi hồi trước nữa.
Thế
rồi sau đó bức tranh Hoa Huệ ra đời. Bức này tôi vẽ tại nhà và được thày Dư
khen. Nó được treo trang trọng giữa nhà từ đó đến nay.
Sau
đó có một lần họa sỹ Nguyễn Đỗ Cung về nhà máy Xi Măng Hải Phòng lấy công nhân
làm mẫu vẽ. Lúc ấy tôi cũng đang đẩy xe than trong nhà máy, gặp và mời cụ về nhà
chơi.
Cụ
Cung xem bức Hoa Huệ rất lâu, rồi khuyên tôi nên thi vào Cao đẳng Mỹ thuật Yết
Kiêu Hà Nội. Cụ còn dặn khi nào lên thi thì nhớ đến qua nhà số 13 Lê Đại Hành
báo cho cụ biết. Mãi sau này tôi mới biết lúc đó cụ đang là một họa sỹ hàng đầu
Việt Nam và giữ chức Bí thư Đảng ủy trường Mỹ thuật Việt Nam.
Năm
1960 tôi lên Hà Nội thi vào hai trường Đại học, trường Bách Khoa và trường Cao
đẳng Mỹ thuật. Nhưng do tuổi trẻ còn nhiều tự ái, nên tôi đã không đến báo cho
cụ Cung biết.
Khi
trường gọi nhập học, các bạn khuyên tôi:
-
“Một bức tranh, người khen đẹp, kẻ chê xấu, làm gì có “chuẩn mực”. Mày học tự
nhiên giỏi, vào Bách Khoa mà học. Hai với hai là bốn, ai dám bảo là không đúng!”
Tôi
cho là có lý và vào học ở Bách Khoa. Nay đã về hưu, đã già lắm rồi, mà thấy hai
với hai vẫn không hẳn là bốn.
Muốn
sống tốt hơn, sung sướng hơn cái khả năng mình có, thì luôn phải nhớ rằng hai
với hai “là bao nhiêu cũng được”, miễn là “cấp trên” gật đầu đồng ý!
Lúc
đầu tôi cũng đã vẽ thử một số tranh đem gửi bán, song không ai dám nhận vì nhà
nước ta “coi trọng hiền tài”! Tranh là tài sản văn hóa vô giá của Quốc gia. Bán
cho nước ngoài là để “chảy của quí của đất nước” ra ngoài mất.
“Phí”!
Tốt
nghiệp Bách Khoa, tôi được điều về Viện Thiết kế Bộ Giao thông. Công việc thì cứ đều đều,
nhưng hồi ấy lương kỹ sư không đủ nuôi gia đình, vợ con. Tôi đã xoay giở đủ bốn
phương, tám hướng như quấn quạt, quấn sut-vôn-tơ(7), chữa xe đạp, xe máy, để
cải thiện thêm cho đời sống.
Một
hôm chủ nhật, anh Nguyễn Hải, kỹ sư Địa chất giỏi nhất của Viện Thiết kế, cùng cơ quan, đem xe máy đến nhờ tôi sửa. Sau bữa trưa,
anh nằm trên giường để nghỉ, ngửa mặt lên thấy cái tranh tôi vẽ đôi cá trê,
phỏng theo tranh thủy mặc(8) của Tàu.
Anh
khen:
-
Mày có cái tranh cổ đẹp nhỉ!
-
Tranh tôi vẽ đấy!
- Bốc
phét! Mày mà vẽ được thế?!
-
Nói thật không tin, thì ra ai cũng thích nghe “nói láo”!
-
Mày tháo xuống tao xem. Nếu đúng là tranh của mày, tao sẽ nhờ vợ tao bán hộ.
- Chị
ấy bán tranh ở đâu?
-
Souvenir du Vietnam(9) Hàng Bài.
Không
ngờ rằng đấy lại chính là “vận hội vàng” đến với tôi.
Sau
khi xem bức tranh của tôi, chị Yến - vợ anh Hải gọi tôi đến nói:
-
Tranh anh vẽ, có thể bán được. Nhưng nếu thể hiện trên lụa thì sẽ có giá hơn.
Khổ
một nỗi thày dạy tôi vẽ lại từ Pháp về, nên ông không dạy vẽ lụa. Thế là tôi lại
mày mò mua lụa về tập vẽ.
Cái
khó là độ mịn của lụa không sao bằng độ mịn của giấy, nên khi đặt bút lên là màu,
mực nhòe tứ tung. Tôi đã tìm “trăm phương, nghìn kế” mà vẫn không sao khắc phục
được “cái nhòe” của lụa. Anh Trịnh Bá Đông bạn cùng phòng nghe kể, dẫn tôi đến ông bác
anh là họa sỹ khóa một trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương(10) đang vẽ tranh
lụa gửi sang Pháp.
Nhưng
suốt buổi gặp gỡ, ông già giữ nghề không chịu phổ biến kỹ năng vẽ lụa.
Về
nhà “nổi máu tự ái” lên, tôi tự nhủ rằng: “Học Bách Khoa khó thế còn học được,
sao bây giờ lại chịu “bó tay” với cái vụ “lụa nhòe” này nhỉ?”
Thế
rồi từ hồ lụa bằng nước cơm, bột lọc đến cồn A-ra-bic(11), từ loãng đến đặc. Rồi
sau đó lại đến cái đoạn “khử mốc” cho tranh. Dù sao lụa tơ tằm vẫn chỉ là chất
hữu cơ, mà cái độ ẩm ở nước ta có mùa lên đến trên 90%, thì như
một nhà thơ nào đó nói đến “tâm hồn còn bị mốc”, huống chi là lụa!
Sau
lại đến cái đoạn bồi tranh, tức là dán lụa lên giấy sao cho hai thứ dính nhau
làm một. Chỉ bị bong bằng hạt đỗ xanh là phải bỏ cái tranh đi. Trên Hàng Mã, họ
có nghề, nên làm rất “nghệ”, nhưng công lấy khá đắt bằng nửa tiền bán tranh.
Hai vợ chồng lại mầy mò làm mãi. Sau vợ tôi trở thành người bồi tranh vào loại
số một.
Cứ
thế dần làm, dần tìm cách khắc phục những sơ xuất mà bức tranh sau hoàn thiện
hơn bức trước.
Tôi
vẽ bức nào bán hết bức ấy. Ông họa sỹ già và cô con gái vẽ lụa gửi sang Pháp,
sau cũng phải nhờ “cửa gửi” của tôi ở Hàng
Bài để bán tranh.
Một
hôm, chị Yến cho gọi tôi đến bảo:
-
Anh phải vẽ thêm các đề tài khác, chứ họa sỹ gì mà chỉ có mỗi bức tranh cá trê!
Hôm nay tôi gọi anh đến, cho anh xem các họa sỹ Hà Nội vẽ những gì. Đây là điều
cấm kỵ. Anh phải giữ kín việc này. Nếu cửa hàng biết, tôi sẽ bị đuổi việc ngay.
Về
ngẫm nghĩ tôi hiểu rằng:
“Tất cả “những đỉnh” đều có “cao nhân” “chiếm lĩnh” rồi. Người Hà Nội tài hoa lắm, nên không còn chỗ hở nào cho tôi có thể len chân vào được.
“Tất cả “những đỉnh” đều có “cao nhân” “chiếm lĩnh” rồi. Người Hà Nội tài hoa lắm, nên không còn chỗ hở nào cho tôi có thể len chân vào được.
Tôi
thấy chỉ còn mỗi mảng tranh đen trắng là còn “bỏ ngỏ”. Nhưng đây là mảng “khó
nhằn” nhất. Vẽ đã khó, lại dễ lộ nhược điểm và đặc biệt không hấp dẫn bằng
tranh vẽ nhiều màu sắc.
Tuy
nhiên phải chấp nhận vì cái sự “sinh sau, đẻ muộn” của mình thôi.
Chị
Yến còn cho tôi biết đối với những nước văn minh, người ta đều yêu vẻ đẹp mạnh
mẽ, thông minh của ngựa và nét quyến rũ của tranh thiếu nữ khỏa thân.
Tôi
quyết tâm đi vào hai đề tài này, ở mảng tranh đen trắng.
Cũng
rất may, về hình họa(12) tôi đã được thày Dư dạy rất kỹ, nên tranh của tôi được
chấp nhận ngay. Chỉ riêng về ngựa thì quả thực tôi chưa biết gì.
Bức
phác họa ngựa đầu tiên đã làm tôi khó quên, khi nghe thằng con nhỏ chạy lại
khoe với mẹ:
-
Mẹ ơi! Bố vẽ một đàn chó rất đông!
Tôi
vừa buồn cười vừa xấu hổ về lời nó nói. Thế rồi các chủ nhật sau, tôi đèo vợ
con trên chiếc xe đạp duy nhất vào Hà Đông chơi với ông bạn cùng phòng của vợ,
có chú em làm nghề xe ngựa để quan sát và ký họa(13).
Ít
lâu sau tôi đã có tranh vẽ ngựa vào loại nhất nhì trong các cửa hàng. Có một lần đi
qua phố Bà Triệu, tôi thấy một nghệ nhân bày tranh và thư họa ra hè. Tôi ghé
mua một bức thư họa thì ông ta cứ giới thiệu đi, giới thiệu lại tranh vẽ ngựa
của ông ta.
Tôi
góp ý về tranh ngựa, rồi đưa danh thiếp thì ông ta tỏ ra rất nể và không dám
lấy tiền bức thư họa tôi mua nữa.
Tôi
đã cảm động nói với ông ấy:
-
Tôi còn chưa khổ bằng bác. Sao bác phải biếu tôi!?
Sau
này đi lại mới biết, ông là Thanh người Thanh Hóa, làm ở Bảo tàng Nhà nước,
thông thạo bốn ngoại ngữ. Giờ về hưu ra đường bán chữ nuôi con học đại học.
Tranh
tôi vẽ, con gái đi đưa mà có ngày nó phải đi về vài lượt để giục giã. Tôi đã có
tiền để sửa lại căn nhà xập xệ của mình.
Có
một lần bà Lan ở số 5 ngõ Đoàn Nhữ Hài, nơi tôi gửi bán tranh, cùng chỗ gửi tranh của danh họa Bùi Xuân Phái, đã nói với con gái tôi:
-
Sau này, bố chị chết thì thế nào cũng nổi tiếng.
Tôi
đến gặp, thì bà nói:
-
Đã có một số người Pháp, sưu tầm tranh của ông, có hỏi địa chỉ, nhưng tôi không
nói. Ông thông cảm, tôi mà nói, thì tôi không nhận được tiền chênh lệch.
Về
nhà tôi đùa với con gái:
-
Hay bây giờ bố chết, để trở thành nổi tiếng. Tranh sẽ bán được giá hơn.
Nó
tưởng thật, đã òa khóc:
-
Con không cần sự “nổi tiếng”, con không cần tiền. Con chỉ cần có bố thôi.
Giờ
tôi cũng đã già, tay đã run, mắt đã kém. Con gái đi lấy chồng và đã trở thành
bà ngoại rồi, không có ai đi giao tranh cho tôi nữa.
Tôi
vẫn giữ được hơn hai trăm bức tranh nguyên bản.
Mấy
lần khách đến đòi mua, trả giá rất cao, nhưng con gái tôi ngăn lại.
Nó chảy
nước mắt nói:
- Bố
đã già rồi, không còn vẽ được nữa. Sau này con sẽ không giữ gì ngoài những bức tranh
bố vẽ.
Thì
ra trên đời vẫn còn có người coi tranh là của quý.
Hà Nội,
2015.
(1) Ga-li-lê: Glileo Galilei: nhà thiên văn, vật
lý, toán và triết học người Ý: 15/02/1564-08/01/1642. .Cha đẻ của khoa học
cận đại
(2) Than: Fusain
(3) Áp-phích: Affiche (tiếng Pháp) bảng quảng cáo
(4) Xi-nê: Viết tắt từ Cinéma (tiếng Pháp) chiếu
bóng
(5) Giải phẫu học về con người: Anatomie de
l’homme
(6) Hoa Lay-ơn: Hoa tuổi trẻ: La Jeune (tiếng
Pháp)
(7) Sút-vôn-tơ: cái tăng áp (tiếng Pháp)
survolteur
(8) Tranh thủy mặc: Tranh vẽ bằng mực Tàu
(9) Souvenir du Vietnam: Cửa hàng bán tranh và đồ
lưu niệm Viêt Nam
(10) Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông
Dương: L’école des Baux-Art de L’Indochine (Yết Kiêu)
(10) Cồn A-ra-bic: Cồn dính làm từ
nhựa cây của Ả-Rập
(11) Hình họa: Thể loại hội họa
không sử dụng màu. Chủ yếu là vẽ người
(12) Kí họa: Tranh vẽ nhanh để ghi
lại
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)