tháng 10 21, 2014
tháng 10 20, 2014
May mắn
Tôi chỉ là một
cây bút tự do, viết thì viết cũng đã lâu rồi, từ hồi còn niên thiếu. Nhưng do
một tai nạn nghề nghiệp. Nói huênh hoang cho oai một tý, chứ lúc bấy giờ mới là
một “cậu nhóc” mười sáu, mười bảy tuổi thì làm gì đã có “nghề” mà gọi là “tai
nạn nghề nghiệp”!
Còn nhớ lúc ấy còn
là một học sinh phổ thông trung học đã “ngứa nghề” muốn viết. Như bà chúa thơ
nôm Hồ Xuân Hương từng viết: “Ong non, ngứa nọc…”, tính lại tàng tàng, không chịu
gửi cho cho một tờ báo thông thường, mà lại đem gửi cho tờ báo tiếng tăm nhất
lúc bấy giờ. Nào ngờ bài viết ấy được đăng. Bạn mừng, thày mừng, lớp mừng,
trường mừng.
Nhưng các cụ đã
nói: “trong may, có rủi”! Giống như câu
chuyện Tái Ông mất ngựa. Mấy tháng sau, đùng một cái tờ báo ấy bị “đóng cửa”. Lý
do thì thiếu gì lý do. Lấy ví dụ cho dễ hiểu là buổi sáng dậy sớm, vội vã ra mở
cửa. Do “mở cửa sớm quá”. Gió lạnh ùa vào thế là đau bụng. Đã đau bụng thì phải
đi vệ sinh. Nói cho dễ hiểu là khi đã muốn “bới bèo ra bọ” thì cứt thằng nào mà
chả thối. Thế là từ chỗ được mọi người ngưỡng mộ chuyển sang ai cũng dè bỉu, chê
bai. Họ cách li như cách li với một người bị bệnh truyền nhiễm. Đa phần là do nhút
nhát, còn lại là do đố kỵ, “không ai muốn giây với hủi”!
Thế là bạn
ghét, thày ghét, lớp ghét, trường ghét. Cuối năm ấy tôi bị tống ra khỏi trường,
do đã học lớp cuối cấp. Không được thi tốt nghiệp. Cầm quyển học bạ với lời phê
của giáo viên chủ nhiệm: “Không đủ tư cách thi tốt nghiệp”! Tôi bơ vơ giữa dòng
đời, lòng trống rỗng và hoang mang cùng cực. Mãi sau này, khi đã già rồi, tôi
vẫn không hiểu nổi tại sao lại như thế?
Tuy nhiên, tôi,
“cái thằng không có đủ tư cách” ấy, hằng ngày vẫn phải làm mọi việc để tồn tại.
Làm cu-li, đẩy xe than, bơm vá xe đạp ở đầu đường. Làm đủ trăm nghề, nghề nào
cũng qua, chỉ có nghề ăn cắp là chưa trải, vẫn không ngừng viết. Chỉ có việc
gửi đi cho đài, báo đăng là “bố bảo cũng không dám” nữa.
Lúc đã già,
trên bảy mươi tuổi rồi, thì lúc ấy đã viết khá nhiều. Nhưng cứ tâm niệm bụng
bảo dạ là khi nào sắp chết còn kịp dối dăng lại cho con cháu: nhớ đốt đi kẻo
mang vạ vào thân!
Có một ông bạn
học cùng lớp phổ thông ngày xưa đã từng làm đến Tổng Giám đốc, song cũng đã
từng bị xích tay và đã từng ăn cơm tù hơn mười năm, đến chơi để cảm ơn vì khi
ngồi sau song sắt ăn cơm nhạt với cá mắm thối, ngoài tôi thì chẳng có thằng chó
chết hay con bạn đểu nào lai vãng, mặc dù khi làm ăn được thì sao mà lắm bạn bè
thân đến thế.
Ông này có chút
năng khiếu về văn học, ngồi uống nước vô tình đọc tập truyện của tôi viết. Ông
ta nói là tôi viết được, rồi khích lệ tôi nên đưa đi xuất bản.
Hỏi đi hỏi lại
mấy lần, tôi vẫn không tin lắm. Như con chim bị bắn trượt, sợ cả cành cây cong,
nhưng cái chính là do cái tật hay thụt thò “bỏ thì thương, vương thì tội”. Đắn
đo mãi, tôi mới nảy ra ý định là sẽ tìm đến một nhà văn lớn để xin được góp ý.
Sau khi suy
nghĩ và chọn lựa, tôi quyết định tìm đến nhà văn Tô Hoài, người mà tôi đã yêu
quý từ khi còn thơ bé với “Dế mèn phiêu lưu ký” của cụ.
Để gặp được một
nhà văn lớn, nổi tiếng, đã ở tuổi chín mươi, lại rất sợ sự quấy rầy của đủ các
loại người, không phải là dễ.
Tôi không có ý
định núp dưới bóng râm của cây đại thụ nào và không có ý định ra sách. Lại càng
không muốn nhuộm cùng màu với bất kỳ ai.
Thế rồi đã rất
kỳ công, tôi cũng đã mò mẫm mấy tháng trời mà vẫn không được toại nguyện.
Cụ bà Cúc, vợ
nhà văn nói:
- “Ông ấy đã
già rồi, lại lắm bệnh tật, nên không gặp bất kỳ một ai. Muốn ông ấy góp ý, thì
đưa vài truyện cho ông ấy đọc. Có khỏe ông mới đọc được, vì thế cũng không thể
hẹn trước. Sau đó ông ấy sẽ góp ý nhiều hay ít là tùy vào truyện. Cỡ một tháng
nữa ông hãy quay lại đây”.
Tôi đã làm theo
lời dặn dò của bà lão cũng chỉ kém cụ ông vài ba tuổi, đi lại ba, bốn tháng vẫn
chưa được nhà văn góp ý. Lần thứ tư, tôi sững sờ khi nghe bà cụ nói:
- Tôi có giục,
nhưng lần này ông ấy bảo tôi: - “Ông này tôi phải gặp”!
***
Bà con gái cả của cụ là người gặp tôi đầu
tiên ở ngoài cổng, hỏi:
- Ông có được bố tôi hẹn gặp không?
Cảm động nhất là khi nghe thấy tôi hỏi
thăm đến nhà, cụ đã lần tường ra đón tôi tận cổng. Lần đầu tiên được tiếp xúc
với một nhà văn lớn, rất nổi tiếng ở mãi Nghĩa Tân, nhà bà con gái đầu của cụ
cũng đã trên sáu mươi, làm nghề thuốc, tiện chăm sóc cho bố và cũng tiện để cụ
“lánh” những cuộc gặp gỡ không cần thiết!
Đó là một cụ già đã chín chục tuổi, thấp
bé, giản dị. Lần gặp gỡ này kéo dài tận hai tiếng đồng hồ, đã vài lần tôi đứng
dậy xin phép cụ ra về vì sợ cụ mệt, nhưng cụ đều giữ lại. Trong chuyện trò cụ
kiệm lời, nói năng nhỏ nhẹ và đặc biệt là cụ nói chuyện rất có duyên, rất hóm
hỉnh.
Trong khi trò chuyện, cụ đã nói với tôi:
- Nếu muốn viết và để có thể trở thành
một nhà văn thì nhất thiết phải có hai thứ:
* Thứ nhất là phải giàu vốn sống.
* Thứ hai là phải giàu vốn từ.
Tôi đùa hỏi lại cụ:
- Thưa bác, thế không cần giàu tiền bạc
ạ?
Cụ cười hiền lành, chỉ nhìn tôi không
nói.
Khi tôi từ biệt cụ ra về, cụ nhất định
tiễn tôi ra tận cổng.
Bắt tay từ biệt, cụ nói thêm một câu:
- Ở ông, có cả hai thứ đó.
- Thưa bác, bác nói cháu có cả hai thứ gì
ạ?
- Cái mà tôi nói lúc nãy ấy. Hãy viết nữa
đi!
Tôi dùng dằng, mãi sau mới dám nói:
- Cháu cứ nghĩ là khó mà được gặp bác,
nhưng hôm nay cháu thật may mắn đã được gặp và chuyện trò với bác. Cháu xin
phép hằng tháng được đến thăm bác, không biết như thế có làm phiền bác không ạ?
- Không sao. Ông không cần xin phép. Muốn
đến chơi với tôi thì phải gọi trước. Bởi tôi thường xuyên thay đổi chỗ ở.
Lúc mới quen cụ vẫn gọi tôi là ông, bởi
dù sao tôi cũng là một ông già trên bảy mươi tuổi rồi còn gì nữa. Tôi sinh sau
cụ mười chín năm.
Thế là từ đấy tôi thường đến thăm ông cụ
hiền lành, giản dị nhưng rất nổi tiếng ấy. Các lần sau tôi thường đưa những tác
phẩm nhỏ bé của mình cho ông cụ đọc rồi xin cụ góp ý. Nhưng do rất kiệm lời nên
cụ chỉ khuyên tôi:
- Anh - sau này khi đã thân mật, cụ đổi
cách xưng hô gọi tôi bằng anh chứ không gọi là ông như trước nữa - nên đưa cho
các tạp chí đăng bài, vừa có nhuận bút. Khi nào tập hợp được nhiều nhiều, họ sẽ
xuất bản mà mình không phải bỏ vốn ra in.
- Thưa bác cháu đã đưa bài cho Tạp chí
Văn nghệ ở 17 Trần Quốc Toản, từ mấy năm nay, nhưng chỉ được họ nhận bài, khen
vài câu nhưng không thấy họ đăng.
- Nếu thế anh đưa bài sang cho Tạp chí
Hội Nhà văn, ở 65 Nguyễn Du. Để tôi gọi điện thoại giới thiệu anh với Tổng biên
tập. Trước tôi đã từng làm việc ở đấy.
Tôi đến địa chỉ trên, ông Tổng biên tập
Nguyễn Tr. đã ra tận cổng đón, vui vẻ mời tôi vào phòng làm việc.
Cũng đi lại như đã đi lại ở Tạp chí Văn
Nghệ, năm lần, bảy lượt, cũng được khen là bài viết tốt, tuy nhiên vẫn không
được đăng. Lần thứ năm, thứ sáu gì đó ông Tr. mới bùi ngùi nói với tôi:
- Tạp chí chúng tôi còn nghèo lắm. Để
đăng bài cho hội viên trong hội Nhà văn cũng đã chật vật lắm rồi. Bài của người
ngoài hội phải được đánh giá là rất xuất sắc mới đăng. Chúng tôi rất lấy làm
tiếc. Anh thông cảm.
Ra về tôi hiểu là những bài viết của tôi
tuy được khen là tốt nhưng chưa thể gọi là “rất xuất sắc” để được đăng trên tạp
chí và vì “tạp chí rất nghèo”, …
Lần sau đến thăm cụ, cụ có hỏi tôi là đã
gặp ông Tr. chưa. Tôi đành nói thật:
- Không phải cháu không lo được vài triệu
đưa cho Tạp chí để đăng bài. Nhưng làm như vậy, cháu cứ thấy nó hèn hèn thế nào
ấy.
Cụ chỉ đăm đăm nhìn tôi mà không nói gì
cả.
Cuối cùng cụ khuyên tôi:
- Chỉ còn cách đưa cho nhà xuất bản.
Nhưng như vậy sẽ tốn kém đấy. Tôi thấy anh không phải là người nhiều tiền, nên
phải cố gắng vậy thôi. Thời tôi còn khỏe đi làm, thì nhà xuất bản sẽ hỗ trợ cho
tác giả sách mấy chục phần trăm. Nhưng bây giờ không biết có còn chế độ này nữa
không?
Tôi thấy yêu mến cụ già tốt bụng này biết
bao. Cứ suy từ cụ mà ra, là một nhà văn nổi tiếng với bao nhiêu giải thưởng lớn
của nhà nước và của cả quốc tế, đi nước ngài trên chục lần, mà đến thăm cụ quan
sát thì chung quanh cụ chỉ toàn sách là sách, sách nhiều vô kể. Một bộ bàn ghế
xuềnh xoàng để tiếp khách, một cái bàn viết nhỏ quay mặt ra cái cửa sổ và một
vỉa hè vắng vẻ, một cái đèn bàn rẻ tiền và một cái quạt cây cũ kỹ. Bên trong
phòng ngủ có một cái giường nhỏ và một cái ti-vi cổ, đít lồi.
Hà Nội vào mùa hè có những hôm nóng đến ba
tám, ba chín độ, mà chỗ ở một danh nhân không có nổi cái điều hòa!
Có một số người nói với tôi:
- Có khi cụ không chịu được điều hòa nên
không lắp.
Có người còn ác ý nói:
- Có khi ông cụ “đóng kịch” đấy!
Tôi thì nghĩ khác. Một người như cụ tuổi
đã trên chín chục, gần đất xa trời rồi còn “đóng kịch” thì đóng để ai xem? Mà
đóng kịch vì mục đích gì cơ chứ! Để tỏ ra đặc biệt khác người, để nổi tiếng à?
Cụ đã chẳng phải chạy trốn “cái sự nổi tiếng” rất vất vả đó sao!
Có lần cụ đã nói với tôi:
- Nghề viết văn không làm giàu được. Muốn
làm giàu thì đừng viết văn!
Nhưng viết, là cái
nghiệp. Nó đã vận vào thân, gỡ cũng chẳng ra. Mà gỡ ra rồi để làm vương, làm
tướng gì cơ chứ? Kinh doanh làm giàu à? Hay phấn đấu để trở thành “đầy tớ của dân”!
***
Tôi ra sách, cũng từ
một “tai nạn” khác. Thì các cụ xưa đã chẳng nói: “Họa vô đơn chí” có nghĩa là
tai họa không chỉ đến một lần là gì. Nguyên do là thế này, cái ông bạn có chút
năng khiếu văn học đã nói ở trên xin kỳ được một quyển truyện tôi tự in ra để
đọc, rồi đem truyền tay cho người này, người nọ. Thế rồi quyển truyện đó lọt
vào tay một ông văn sĩ già, có người thân ở Mỹ. Một lần sang Mỹ, ông ta tung
lên mạng cho vui. Thế là một truyện ngắn của tôi được đưa lên mạng với số người
xem lên tới gần mười nghìn người, và kèm những lời ngợi khen hơi quá đáng.
Tôi có một ông bạn
làm nghề công an chức vụ tới chức Thượng tá sau khi xem xét sự việc, đã cảnh
báo là việc này chẳng có gì đáng mừng cả, vì chẳng may “cái truyện ngắn được
đăng lên mạng ở nước ngoài thuộc phe thù địch” lọt vào “tầm ngắm” của một “đồng
chí” công tác ở bộ phận An ninh chính trị. Thì rất có thể tác giả sẽ được đồng
chí ấy gọi lên, “tặng cho” hai, ba cái tát. Lúc ấy mả bố có táng trên cung
trăng cũng phải lên mà đào xuống.
Quá lo sợ, lại thêm lời khuyên của nhiều
người, tôi bèn bàn với vợ là chỉ còn cách đưa truyện cho một nhà xuất bản nào
đó duyệt rồi in ra sách. Lúc ấy họa may mới tránh được tai họa.
Cuối cùng thì cũng
phải vay mỗi nơi một ít để xuất bản tập truyện đầu tay chỉ gồm có ba mươi
truyện ngắn.
***
Trong những lần gặp
gỡ thân mật, cụ đã cho tôi biết những điều rất riêng tư mà không mấy người được
nghe cụ kể:
- Ngày xưa nhà tôi
nghèo lắm, chẳng được học hành nhiều. Trò chơi lúc bé chỉ là đúc dế ven sông Tô
Lịch để đem chọi cho vui. Từ thơ ấu thiên nhiên, cỏ cây, sinh vật đối với tôi
thật gần gũi và thân thiết, vì thế mà khi mới mười bảy, mười tám tôi đã viết
“Con dế mèn”, lúc đầu mới có ba chương.
Đưa cho báo Tân Dân
đăng được trả mười đồng nhuận bút và kèm một lời khuyên của ông Chủ báo:
- “Cậu viết được
đấy, nhưng ngắn quá. Viết dài hơn, tiền nhuận bút sẽ nhiều hơn”.
Và thế là sau đó “Dế
mèn phiêu lưu ký” dài mười chương ra đời vào khoảng năm 1941 gì đó.
Đưa cho Nhà báo, tôi
được trả ba mươi đồng nhuận bút. Lúc bấy giờ ba mươi đồng lớn lắm. Nhưng sau
khi “Dế mèn phiêu lưu ký” ra đời, cái tôi thu được không phải chỉ là gấp ba số
tiền trước, mà là tôi đã có một vị trí trên văn đàn. Lúc bấy giờ tôi mới hai mốt
tuổi và rồi tôi đã được cô con gái ông Chủ báo để ý đến. Thực ra tôi cũng có
cảm tình với cô ấy. Nhưng sự khác biệt giữa hai bên quá lớn. Khi ông Chủ biết
chuyện đã lôi phắt cô con gái rượu về Hà Nội để gả chồng (ngày ấy Nghĩa Tân
được coi là vùng quê ngoại thành).
Hôm đám cưới tôi
cùng mấy người bạn thân như Nguyễn Bính, Nguyễn Huy Tưởng,.. có đến mừng.
Giọng ông cụ bỗng
chùng xuống:
- Nhưng chẳng hiểu
sao, chỉ tháng sau thì cô ấy mất.
Có ba mươi đồng
nhuận bút từ báo Tân Dân, tôi đi du lịch vào phía Nam. Thế rồi ở Dầu Tiếng, tôi
đã gặp bà Phượng. Hai người chúng tôi rất tâm đầu ý hợp và có ý định đi tới hôn
nhân.
Sau đó tôi trở ra
Bắc. Nào ngờ cuộc chia tay ấy đã kéo dài hơn bốn mươi năm. Chúng tôi xa nhau, chỉ
còn những lá thư qua lại. Thư từ hồi ấy phiền toái lắm, hàng tháng, có khi vài,
ba năm mới tới. Đường đi của lá thư cũng rất gian nan, từ Pháp sang Liên Xô rồi
mới vòng về Hà Nội. Nếu từ Hà Nội thì lại đi theo đường qua Căm-pu-chia rồi mới
đến Sài-Gòn.
Năm 1975 bà Phượng
theo gia đình sang Pháp rồi sau đó mới lập gia đình. Bà kết hôn với một người Pháp, rồi người chồng ấy mất sớm. Tôi vẫn viết thư
đều đặn cho bà Phượng, dù hy vọng rất mong manh. Lần nào đi nước ngoài, tôi
cũng nhờ người này, người nọ tìm kiếm. Sau khi Việt Nam thống nhất, từ Pháp, bà
Phượng thông qua hội Việt kiều hỏi han tin tức của tôi.
Không hiểu sao, sau bao năm bặt vô âm tín, bà Phượng vẫn luôn có niềm tin mạnh mẽ rằng sẽ có ngày được gặp lại người mình yêu dấu.
Có lần, hú họa, bà gửi cho tôi một bức thư mà bên ngoài chỉ đề vỏn vẹn hai dòng
chữ:
Người nhận: Nhà văn Tô Hoài - Địa chỉ: Hội Văn nghệ Hà
Nội.
Nhưng chẳng hiểu sao, cả Hà Nội rộng mênh mông là thế,
nhưng Hội Văn nghệ Hà Nội dù không đề địa chỉ, thư vẫn đến được với tôi. Đó là
vào những năm 1980. Kể từ đó, hai người chúng tôi nối lại được liên lạc với
nhau qua thư từ. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của bà Phượng với tôi không thành vì bà
về Hà Nội đột ngột, còn tôi lúc đó lại đang đi công tác. Bà không thể nán lại
Hà Nội lâu hơn để chờ. Rồi một thời gian sau, tôi và bà Phượng chính thức gặp
lại nhau sau hơn 40 năm xa cách. Khi đó, cả hai chúng tôi đã già, nhưng tình
cảm vẫn còn mặn mà, nồng hậu. Bà nhiều lần muốn đón tôi sang Pháp dưỡng già,
nhưng tôi đều từ chối vì tuổi đã cao. Đều đặn hàng năm bà Phượng trở về Việt
Nam để gặp lại tôi. Chúng tôi đã cùng nhau đi du lịch Hạ Long, Sài Gòn. Có đợt, tôi và bà Phượng đã cùng nhau sống trong chùa ở
Long Thành, Vũng Tàu, hàng tháng trời.
Bỗng nhiên cụ trầm giọng xuống:
- Nhưng bà Phượng cũng đã mất cách đây vài năm rồi.
Sau khi tôi trở ra Bắc được ít lâu, tôi gặp bà Cúc và đấy
là người đàn bà, người vợ trung thành, tận tụy với tôi, đã cùng tôi đi cho đến
cuối cuộc đời.
Ông cụ kể về ký ức đã qua của đời mình với một giọng nhỏ
nhẹ nhưng truyền cảm và thật sâu sắc, làm cho tôi ngồi nghe mà như nuốt lấy
từng lời.
***
Hôm sinh nhật cụ lần thứ chín mươi, tôi có làm bài thơ
ngắn để chúc mừng:
Năm nay bác
chín mươi rồi,
Mà sao sừng
sững giữa trời một cây.
Bão giông chẳng thể lung lay,
Vẫn sum suê lá, vẫn đầy tiếng chim.
Cụ xem xong
cười và cám ơn. Rồi cụ nói với tôi:
- Thực ra
tôi cũng không đích xác biết ngày sinh của mình đâu, tôi chỉ nhớ lúc mẹ tôi
còn, có lần cụ nói: - “Ăn rằm trung thu hôm trước, thì hôm sau tao đẻ mày”. Nhà
nghèo nên cũng chẳng làm giấy khai sinh như người khác.
Tra lịch ra
thì cụ sinh ngày 27/09/1920 – tức ngày 16/8 đủ năm Canh Thân.
Hôm Hội Nhà
văn tổ chức sinh nhật cụ tại trụ sở Hội, cụ có bảo tôi đến dự, nhưng tôi nói:
- Cảm ơn
bác, nhưng cháu chẳng là gì, đến lại phải giới thiệu với người này, người no,
cháu ngượng lắm.
- Nhưng tôi
mời anh cơ mà.
Cuối cùng
tôi cũng không dám đến, mặc dù rất quý cụ.
***
Từ cuộc
sống nghèo khổ, cụ đã vươn lên và trở thành một nhà văn lớn nhất Việt Nam và
cống hiến cho đời bao tác phẩm có giá trị. Đấy là một cuộc đời thật có ý nghĩa,
thật lớn lao và không uổng phí như bao người khác chỉ “sống để mà ăn” mà nào có
khác gì cái “giá áo túi cơm”.
Hồi 11:45
ngày 06/07/2014 tức 10/06 - Giáp Ngọ cụ Tô Hoài đã bỏ chúng ta lên đường phiêu
lưu sang một thế giới mới. Chắc chắn đó phải là một chân trời đầy hoa thơm, cỏ
lạ.
Tôi yêu
kính cụ Tô Hoài không phải chỉ ở cái văn tài lớn lao mà còn ở cả cái nhân cách
ít gặp trong đời.
Thật may
mắn là tôi đã được gặp bác Tô Hoài, dù chỉ là một thời gian rất ngắn.
Hà Nội, 2014.
Duyên nợ
Tôi
với bà, lấy nhau từ hồi trẻ,
Giờ
già rồi vẫn thường nghe bà kể,
Cha
mẹ bà đã cầu khấn khắp nơi
Phật
mới thương tình cho bà xuống trần ai
Té
ra bà là hằng nga giáng hạ!
Ngày
tháng trôi đi, chắc là làm ăn vất vả,
Đến
lúc lấy chồng, lại vớ nhầm một gã khùng điên.
Dẫu
rằng bà có đúng thật là tiên,
Xuống
hạ giới vẫn cứ khổ như con chó!
Vốn
vẫn biết cuộc đời là bể khổ,
Cũng
không sao nuốt được nỗi tủi trong lòng.
Là
thân đàn bà cốt lấy được tấm chồng,
Để
nhờ cậy lúc cơ hàn, túng quẫn.
Nửa
thế kỷ sống với nhau mà vẫn sao lận đận,
Chẳng
kiếm được tiền nhiều như thiên hạ chung quanh.
Thế
mới hay duyên nợ ba sinh,
Vẫn
ràng buộc cuộc đời ta làm một.
Bà
có giận, tôi cũng đành nói nốt,
Cuộc
tình duyên lúc trẻ, tuổi vô thường
Nhớ
dặn cháu con hãy lấy chữ yêu thương,
Mà
gắn bó với nhau thì mới chắc.
Hà
Nội, 2014.
tháng 10 12, 2014
Tiền của ai
Ông bạn hàng xóm của tôi sáng nay (12/10/2014) sang tôi sớm hơn mọi hôm, tay
cầm tờ báo. Vừa uống ngụm nước tôi vừa pha, rồi ông thở dài đưa tôi tờ báo Lao
Động (Lợi quyền của người lao động) số 224, hỏi tôi:
- Ông đã đọc tờ báo cũ này chưa?
- Chưa, nhưng sáng nay lúc 07 giờ , tôi có xem TV mục Báo Chí toàn cảnh
trên VTV1 thì thấy một tít báo thế này:
Thể thao Việt Nam hậu ASIAD: Gieo trăm tỷ,
gặt …1 huy chương vàng.
(Đắc Lâm - 8:59 AM, 07/10/2014)
HCV của Thúy Vi không đủ gỡ gạc thất bát
của TTVN tại ASIAD.
Chưa có thống kê chính thức, nhưng tính
tổng kinh phí cho đoàn thể thao Viêt Nam tham dự ASIAD 2014 gồm chi phí tập
huấn nước ngoài, thuê chuyên gia và suốt quá trình dự ASIAD thì số
tiền ước tính lên tới trăm tỉ đồng. Thế nhưng, khi bỏ ra số tiền lớn
như vậy chỉ thu về 1 HCV, 10 HCB và 25 HCĐ, thì cần phải suy nghĩ.
- À, tại đầu tư ít quá chứ sao! Cứ thử bỏ
ra nhiều hơn xem!
- Ít cái nỗi gì - Hơn trăm tỷ mà còn ít ư?
- Nếu chịu bỏ ra nghìn tỷ, mười nghìn tỷ
thì số HCV sẽ khá hơn, chứ sao nữa!
- Ông có biết tiền ấy ở đâu ra không?
- Tiền của ngân sách nhà nước chứ còn ở
đâu.
- Nhà nước có gieo trồng gì đâu mà có
tiền?
- Nhà nước không gieo trồng trên đất nhưng
có chỗ màu mỡ hơn đất nhiều!
- Làm gì có chuyện ấy. Chẳng lẽ họ lại
gieo trồng trên lưng ông à?
- Một cái lưng tôi thì “bõ bèn” gì! Họ đã
gieo trồng và gặt hái trên lưng gần 90 triệu “đồng bào thân yêu của chúng ta”
đấy, ông ạ!
- Ừ, mà có lẽ thế thật!? Hèn chi mà dân ta
vẫn cứ nghèo khổ mãi như thế.
Bệnh viện thì bốn năm người một giường.
trường học thì phải chia ca để học, trường không ra trường, lớp chẳng ra lớp.
Thày cô giáo không sống nổi bằng nghề. Có nhiều thày cô giáo yêu nghề phải gạt
nước mắt bỏ trường tìm kế sinh nhai khác để tồn tại
- Còn có lẽ cái con khỉ mốc gì nữa! Bọn Tổ
chức cái “hội Thể thao” này, liên kết với bọn Quản lý ngân sách nhà nước, phóng
tay chi tiền. chúng thừa biết trong đó chúng đã “cho vào hầu bao mình” được bao
nhiêu phần trăm rồi. Làm gì mà chúng chẳng thoải mái.
Các cụ chẳng có câu:
“Ông thày ăn một, bà cốt ăn hai,…” đấy
thôi. Với lại có phải tiền của ông, của cha chúng đâu mà chúng xót!
Mà cũng lạ, ở nước nào cũng vậy khi đăng
cai tổ chức một lễ hội nào có nước ngoài đến dự, đều có lãi. Riêng nước ta thì
ngược lại tổ chức cái gì, cũng lỗ chỏng gọng, chẳng hiểu ra thế nào nữa!?
- Có thế mà cũng không hiểu! Khi tổ chức
ra làm bất kỳ cái gì thì chúng chia nhau phần trăm thỏa thuận trước đã. rồi mới
tính đến việc tổ chức sau.
- Thế thì có ngày chúng đào cả mả tổ lên
để bán lấy tiền đút túi chứ chẳng chơi!
- Thì ông không thấy mấy đứa nó bán đất năm
mươi năm đến chín mười chín năm cho nước ngoài rồi đấy ư?
- Bán thế nào, ở đâu?
- Mấy khu béo bở gần đường giao thông,
chúng bán cho nước ngoài, để xây dựng khu công nghiệp, công nghẽo gì gì ấy!
- Tôi và ông biết đoàn thể thao ta chỉ
được một huy chương vàng, nhưng thử hỏi nếu khi giành được mười huy chương vàng
thì đất nước này có gì khác đi không?
- Dân thì làm sao mà khác đi được chứ.
Nghèo vẫn vậy, khổ vẫn vậy.
- Thế thì chúng lấy tiền của dân ra để đua
nhau giành thật nhiều những cái “vô bổ”, những cái “rởm đời” ấy để làm gì?
- Ông Trần Quốc Vượng một người viết sử đã
từng nói: “Nước ta chỉ là một cái làng lớn!”
Vì thế cung cách sống của nó mang nặng
“tính làng xã”. Thích vung vinh, khoe mẽ, vỗ ngực ta đây. “Miếng giữa làng, hơn
sàng xó bếp” mà. Đúng là “được tiếng khen, ho hen chẳng còn”! Ăn vỏ khoai mà
nói là ăn thêm cái bánh rán như trong chuyện tiếu lâm vậy!
Hà Nội, 2014.
tháng 10 11, 2014
tháng 10 10, 2014
Tiếng mèo gào
Nhà có nuôi một con mèo nhỏ
để bắt chuột và để cháu chơi. Con mèo rất đẹp và hay nũng nịu, nên không những
cháu thích mà cả nhà ai cũng quí, cũng chiều. Nó lại ngoan nữa, đi vệ sinh biết
vào nhà vệ sinh. Vào mùa đông lạnh giá khi nào muốn vào trong chăn thì đứng
cạnh màn kêu nho nhỏ. Thằng cu con biết hiệu chỉ vạch một lỗ nhỏ là nó lỉnh vào
nằm bên cạnh rất ngoan như một em bé vậy.
Thế rồi ngày tháng trôi đi,
nó lớn dần và qui luật tất yếu xảy ra. Nó đi giống và có chửa. Lúc bấy giờ tôi
mới biết đó là con mèo cái. Vốn là con vật khôn lanh và khéo léo, nên khi mang
thai, nó trở nên rất dịu dàng, đi lại rón rén khéo léo như một thiếu nữ duyên
dáng. Vuốt ve thì vuốt ve, nhưng khi chạm vào bụng là nó chuồi ra rồi nhẹ nhàng
né tránh.
Trước khi sinh, nó chọn ổ
phải đến dăm chỗ. Chỗ nào cũng kín đáo và sạch sẽ. Sau khi sinh, nó nuôi con
thật khéo léo và chu đáo. Bị nhiều người “nhòm ngó” là rình lúc vắng, nó cắp
con đến một “căn cứ” khác ngay. Nhiều lần cả nhà tôi đã phải đi tìm mẹ con nó
phát mệt.
Hơn tháng trời con đã ăn
tranh cơm của mẹ, mà mẹ vẫn nằm ra cho con bú, người gày rộc hẳn đi. Nhin nó
nằm cho con bú, âu yếm liếm láp cho con, mà phải liên tưởng đến nhiều người đàn
bà vô tâm, lười biếng, thật không bằng một phần của nó.
Có nhiều người đã nhận xét:
- Con mèo này chăm con, chu đáo hơn khối bà mẹ đoảng!Hai tháng dù bọn con đã lớn bổng lên, thế mà khi chơi đùa, chí chóe nhau chỉ cần kêu to lên một tiếng là từ mãi đâu xa nó phi đến như điên miệng gào lên dữ tợn. Chỉ đến lúc thấy lũ con vẫn bình yên nó mới lại hiền lành trở lại, âu yếm liếm láp con và ngắm nhìn đàn con đúng như một bà mẹ hiền đức độ.
Khi có người đến xin mèo nhỏ, ai mà chẳng vậy, làm sao nuôi cả đàn mèo được. Nhà tôi đã ý tứ hẹn họ vào một
ngày, lừa cho mèo mẹ ăn rồi nhốt vào cũi. Khi mọi người bắt mèo nhỏ cho vào
trong túi thì nó trở nên dữ tợn như một con vật khác hẳn, lồng lộn phá chuồng miệng
gầm gào khủng khiếp, không còn là con mèo hiền lành dễ mến mọi khi. Đàn mèo con
cũng chống cự quyết liệt, làm cho người bắt cũng phải cẩn thận đôi chút.
Sau hôm ấy, nó bỏ ăn, miệng
không ngớt gào gọi và lang thang đến các nơi nó đã từng dấu con ở đấy.
Không thấy con, nó gọi con
rất âu yếm rồi như lại lắng nghe xem có tiếng con gọi lại ở đâu đó không. Đã
dăm hôm như thế, nó không đi săn chuột nữa, mà hầu như suốt đêm, nó lang thang
đi lại khắp nơi, quanh quẩn gào gọi con thật thảm thiết.
Tôi cũng yêu những vật nuôi
trong nhà, nhưng ít khi gần gũi với chó mèo vì dị ứng lông chúng, thế mà khi nó
đến gần cọ vào chân rồi ngước mắt lên nhìn cầu khẩn, miệng âu yếm gọi lũ con
không về nữa. Tôi đã không sao cầm lòng được, cúi xuống bế nó vào lòng. Nó nằm
im rồi ngả đầu vào tay tôi, dim mắt lại gừ gừ nho nhỏ, như xin được chở che,
xin được sẻ chia mất mát.
***
Hôm qua nhà tôi về kể có một
xác thai nhi bỏ trong một túi ni-lông vất ở đống rác công cộng. Không nói được
gì, tôi sững sờ nghĩ:
- Trên đời này sao vẫn cứ tồn
tại những loại người không bằng một con vật!
Hà Nội,
2014.
tháng 10 09, 2014
Nỗi đau
Đớn đau thường dai dẳng,
Niềm vui chỉ thoáng qua.
Người thân đi đâu cả,
Ta thấy ta, đã già.
Cái tưởng mình đã biết,
Nào có đáng gì đâu.
Té ra không phải vậy,
Ngẫm lại rặt u sầu.
Ngày trôi sao nhạt thếch,
Chỉ những đắng với cay.
Càng nhâm nhi càng thấm,
Sao lại ra thế này?
Hà Nội, 2014.
Vết thương ngứa
Ông bạn học hồi phổ thông với tôi, bây
giờ đã bảy tư, bảy nhăm mà vẫn còn rất nhanh nhẹn. Người tuy không to cao nhưng
cứ chắc như cục gạch. Không có bệnh gì sất, không nghiện ngập cái gì sất, thuốc
không, chè không, rượu cũng không nốt. Chỉ có tật hám gái là đến nay đã già, "cụ" vẫn không sao “chừa” được.
Nhưng thử nghĩ lại mà xem. Sống ở đời
không “mắc” một thói hư, tật xấu nào thì sống làm cái đếch gì! Những kẻ tự đánh
bóng tên tuổi mình và để bọn tôi tớ nịnh bợ ca ngợi là bậc thánh sống, cái gì
cũng trơn nhẵn, sáng bóng, thơm từ cái rắm thơm đi thì nhắm mắt cũng biết đó là
một tên lưu manh, bịp bợm. Những trò đó là những trò rẻ tiền và chỉ có thể lừa
được bọn con trẻ vắt mũi chưa sạch.
Hôm nọ ông bạn tôi đi xe máy, không may bị
một cô nàng ngổ ngáo xô phải ngã chổng kềnh. Chân thì kẹt dưới cái “bô” nóng
giãy. Nhưng khổ một nỗi là cô em bé bỏng kia, lại nằm đè ngay lên người cụ. Cái
váy quá ngắn bị tốc ngược lên, chỉ còn lại cặp mông tròn trịa nằm gọn trong
lòng, cho nên dù biết chân đang bị cháy xèo xèo, cụ cũng “mặc mẹ nó cho nó
cháy”.
Thế là cụ bị bỏng bô. Xưa nay chẳng có thằng
nào đi xe máy mà không bị bỏng bô một, hai lần. Nhưng lần này vì hơi đặc biệt
hơn, thành ra khi dỡ được hai cái xe ra thì cái chân cụ bị đè bên dưới thịt đã
“bốc mùi lên” thơm phưng phức.
Cụ được đưa vào bệnh viện để điều trị.
Sau mười bảy ngày chữa chạy tại Bệnh viện Tỉnh vết thương đã ổn định. Nhưng vì
cụ là Giám đốc về hưu lại hiện là Chủ tịch của mấy công ty nữa nên anh em lo
lắng khuyên cụ nên lên Viện Bỏng Quốc gia để vá da cho hoàn chỉnh.
Hơn một tuần cụ nằm tại Viện, thì cũng
như trời đất xui khiến thế nào ấy, cụ lại được một nữ bác sỹ trẻ đẹp điều trị.
Do có tài ăn nói và lại rất có duyên, nhưng có lẽ cái chính là cụ chịu móc “hầu
bao” ra nên khi làm phẫu thuật ghép da, kể cả khi thay băng hằng ngày, cô bác
sỹ đáng yêu kia đều giành quyền chăm sóc riêng cho cụ.
Trong khi trò chuyện thì Bác sỹ “mỹ nhân”
có thói quen là hay tỳ đùi mình vào chân bệnh nhân rất ư là thân mật.
Bây giờ về nhà rồi, vết thương của cụ đã
liền nhưng chẳng hiểu sao lại ngứa khủng khiếp, phải thay nhau gãi ngày đêm vẫn
không “đã”, không thể ngồi yên một lúc, không thể làm ăn được gì cả.
Cụ đành đi khám ở Viện Da Liễu Trung ương
thì mới té ngửa ra là cụ bị một loại ký sinh rất nhỏ gọi là rận
lông mu(1) tấn công vào “vết thương hở”!
Tuy
khó chịu vì ngứa, nhưng cụ bạn tôi lại đê mê với cái cảm giác được “thân mật”
“tỳ đùi, áp…” với cô bác sỹ điều trị xinh đẹp tại Viện Bỏng Quốc gia.
Hà Nội, 2014.
(1) rận lông mu: tên khoa học: Pthirus
Pubis. Một loại ký sinh sống rất dai dẳng, khó tiêu diệt. Loại này đa số là ký
sinh trên mu và bẹn của nữ giới. Có khi còn ký sinh trên cả lông mi mắt.
Phong Kiều dạ bạc
Phong Kiều dạ bạc
Nguyệt lạc ô đề, sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa, đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại, Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh, đáo khách thuyền.
Trương Kế
Dịch thơ
Đỗ thuyền đêm ở bến Phong Kiều
Trăng tà chiếc quạ kêu sương,
Lửa chài cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
Nguyễn Hàm Ninh
tháng 10 08, 2014
tháng 10 07, 2014
tháng 10 06, 2014
Cảm hoài
Cảm hoài
Nỗi lòng một sự, yếm chưng một,
Đèn khách mười thu, lạnh hết mười.
Phượng vẫn tiếc cao, diều hãy lượn,
Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi.
Nguyễn Trãi
Lời tựa
Ai cũng chỉ có một cuộc đời.
Vài chục năm trong cuộc đời ấy thì
viết cũng là một cuộc chơi.
Đã bước qua cái ngưỡng của tuổi bảy
mươi, tôi mới dám viết, phải chăng là quá muộn mằn?!
Nhưng như người xưa đã dạy: “Muộn còn
hơn không!”
Viết, với tôi giờ đây là một nhu cầu
tự thân. Viết cho mình, cho bạn bè, cho người nào muốn đọc và cũng bởi vì khi
mà tuổi trời sắp hết, trí lực cạn dần, không viết thì còn biết làm gì nữa!
Có điều gì làm người đọc chưa vừa
lòng, cúi xin rộng lòng tha thứ.
Tác giả.
tháng 10 01, 2014
tháng 9 24, 2014
"Made in Vietnam"
Hai ông bạn già lâu ngày mới gặp nhau
thành ra có nhiều chuyện “để dốc bầu tâm sự”.
Sau một lô những câu thăm hỏi sức khỏe,
gia cảnh, rồi cuối cùng đến cả chuyện chó mèo nữa.
Một lúc sau, ông béo đột nhiên hỏi ông
gầy:
- Này bác còn nhớ ông Phương, Nguyễn Duy
Phương, giáo sư tiến sĩ vật lý nguyên tử, trước những năm bảy mươi cùng dạy một
khoa với bác ở Đại học Bách khoa Hà Nội không?
- Làm gì chẳng nhớ, công tác với nhau
trên bốn chục năm, cùng ngành, cùng trường! Ông ấy được phong giáo sư tiến sĩ
xuất sắc nhất trong ngành vật lý tại Liên Xô năm 1975. Hồi đó ông là người đem
vinh quang về cho Việt Nam. Cả thế giới còn biết đến huống gì là tôi. Thế bác
hỏi ông ta về việc gì?
- Chả là tối qua(1), tôi xem thời sự trên
Truyền hình, thấy ông ấy xuất hiện nói là sau bao nhiêu thông tư, chỉ thị viết
đến cuối tháng 6/2006 quyển sổ đỏ cuối cùng trên toàn đất nước sẽ được cấp!
Thế mà đến nay, đã cuối 2011 “cái sổ đỏ”
của nhà ông ấy vẫn không làm được.
- Thật thế à, lý do tại đâu?
- Theo như ông ấy nói thì là do nhà ông
ta ở K 13,14 gì đó trong phường Bách Khoa. Khu này chuẩn bị giải tỏa để mở rộng
đường Đại Cồ Việt, nên không được cấp sổ đỏ!
Từ những năm 1960, ông ấy được bộ Đại học
và Chuyên nghiệp phân cho ba mươi mét vuông ở đó, lúc ấy mới là một anh giảng
viên ngoài ba mươi tuổi. Bây giờ đã là một Giáo sư Tiến sĩ già trên tám mươi tuổi rồi.
Nguyện vọng ông ấy là muốn làm tròn nghĩa
vụ công dân của mình: được sở hữu đất mình ở và nộp thuế cho nhà nước như những
công dân khác!
- Theo như tôi biết thì khu ấy có đến mấy
nghìn giáo sư, tiến sĩ, bét nhất cũng là Thạc sĩ của bốn, năm trường đại học:
Mỏ, Địa chất, Hóa, Xây dựng,.. chứ có phải chỉ có mình ông ấy đâu! Toàn bộ bọn
họ chẳng ai được cấp sổ đỏ, mà có làm sao đâu!
- Nhưng sao lại có sự phi lý đến thế?
- Bác bảo phi lý cái gì? Hay là tại ông
ấy sợ khi giải tỏa thật, vì không có “sổ đỏ” (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất)
thì chỉ được đền bù theo giá đất lấn chiếm, đất không hợp pháp? Xin nói để bác yên
tâm, cái dự án mở rộng đường Đại Cồ Việt có lẽ phải dăm, sáu chục năm nữa mới
có cơ triển khai được. Lúc ấy ngay mộ ông giáo sư tiến sĩ già cũng đã phải di
chuyển đến vài ba nghĩa trang rồi!
Việc gì phải lo trước sớm thế!
- Ô hay, sao từ chuyện nọ bác lại xọ
chuyện kia thế? Tôi cho bác biết khu tôi đang ở có một cô gái chưa học hết lớp
ba trường làng, do buôn bán kiểu gì không biết, phất lên. Bây giờ cô ấy chuyển
sang kinh doanh nhà đất. Mua bất cứ miếng đất nào, bất cứ ở đâu, chưa xây xong
nhà đã có “sổ đỏ”. Cô ta còn nuôi cả luật sư trong nhà nữa!
Bác thử giải thích xem vậy nó là “cái
gì”!?
- Nó là “Made in Vietnam”!
Mà này hôm nào rảnh, bác giới thiệu ông
Phương cho cô gái ấy. Chắc là sau khi tốt
nghiệp vài “khóa học khôn” từ cô ta, ông giáo sư tiến sĩ già sẽ “không còn thắc
mắc” nữa cũng nên!
Ông gầy nhìn ông bạn béo của mình cười
như nắc nẻ nhưng mắt thì rưng rưng như muốn khóc và mồm lại méo xẹo đi như vừa
bị ai tát một cái rõ đau.
Hà
Nội, 2011.
(1) ngày: 27/8/2011
Liên hệ: DĐ:
0915140055
Cháu và thơ
Ông cháu
Sáng đi cháu tặng nụ hôn,
cả ngày vất vả, vẫn thơm đến giờ.
Cháu ơi, một giọt ngây thơ,
truyền từ môi cháu, thẫn thờ lòng ông.
Hà Nội, 1999.
Chẳng lẽ lại là yêu
Tôi là một cô gái bán hoa đã
về chiều. Được cái thân hình chưa “xuống cấp” lắm. Ngay như cái hình thể bên
ngoài, vì chưa chửa đẻ nên bụng còn săn chắc. Chỉ có bộ ngực là không còn tròn
trịa nữa vì làm sao mà giữ mãi được khi phải tiếp khách thường ngày.
Có cái mất đi thì ai cũng
nhận ra. Nhưng có cái mất đi thì không ai nhận ra cả. Nó là phần khuất của con
người, của mỗi người
Tôi được một ông hoạ sĩ già
thuê làm mẫu vẽ qua hội mỹ thuật. Được nghe lén cuộc trao đổi giữa người điều
hành với ông hoạ sỹ già:
- Bác thuê mẫu khoả thân.
Nhưng mẫu này ngực đã “xuống cấp”, không còn “gin”(1). Sợ bác không vừa ý.
- “Tròn” có cái đẹp của tròn.
“Xệ” có cái đẹp của xệ. Không lo.
Thế rồi tôi làm mẫu cho ông đã gần nửa tháng.
Mẫu ngồi có, mẫu nằm có.
Ông chỉ dùng mẫu để phác
thảo, còn khi vẽ ông thỉnh thoảng mới nhìn qua.
Ngày này qua ngày khác ông
cặm cụi làm việc. Ít nghỉ ngơi, ít nói, ăn uống cũng xuề xoà, gặp gì ăn nấy.
Tôi làm theo hợp đồng nên giờ nghỉ tôi ra quán ăn uống no rồi về nằm tựa vào
chỗ nào đó ngủ say sưa. Có lắm hôm ngủ đến chiều hết giờ mới tỉnh dậy. Tôi lúng
túng đến xin lỗi ông. Nhưng lần nào ông cũng chỉ mỉm cười không nói.
Hết hợp đồng, khi chia tay
ông cho tôi thêm ít tiền nói là bồi dưỡng và còn cám ơn tôi nữa.
Mấy tháng sau đó, tôi nhận được giấy mời đến
xem triển lãm tranh của một hoạ sỹ lớn.
Tôi không hiểu biết gì về hội
hoạ, nhưng vẫn nhận ra những bức tranh mà tôi từng làm mẫu. Những bức tranh
thật đẹp, thật sống động và không hiểu sao khi nhìn thật kỹ vào đó người ta như
thấy như nó đang nói lên một điều gì đấy. Thật thuần khiết, không dung tục.
Chẳng lẽ đó lại là tình yêu.
Bởi chỉ những tâm hồn lớn mới có tình yêu lớn. Tình yêu ấy vượt lên trên những
thói tục thông thường. Rất bao dung.
Tôi cứ tiếc mãi là khi được
làm việc với ông tôi không biết ông là một hoạ sỹ lớn.
Hà Nội, 2010.
(1) Gin: origine (tiếng Pháp): nguyên bản, nguyên gốc
Liên hệ: DĐ: 0915140055
tháng 9 23, 2014
Đòi đất
Căn nhà nhỏ trống vắng, chỉ còn lại hai
ông cháu.
Ông lão nắm lấy tay thằng cháu nội phều
phào dặn dò:
- Cháu ạ, ông đã yếu lắm rồi, không còn
sống được bao lâu nữa, cháu sẽ thay ông để đòi lại mảnh đất của các cụ để lại.
Đây không chỉ là đất đai, không phải chỉ là của cải đâu mà là vong linh của tổ
tiên, là di sản của ông cha để lại nữa!
Đứa cháu mới lớn, nước mắt dòng dòng, nắm
chặt tay ông gật gật cái đầu. Nó biết là ông nó yêu nó lắm, nó cũng yêu ông
lắm, nhưng việc đòi lại mảnh đất của các cụ đã hai chục năm nay rồi, với một
tập hồ sơ dày gần bằng một quyển tự điển, số trang đã lên tới hàng trăm, được
ông nội nó giữ gìn cẩn thận và phô-tô ra hàng chục bản, gửi khắp các cơ quan từ
địa phương phường, xã đến các Bộ trên trung ương. Ở đâu cũng được người ta trả
lời rất cởi mở, có tình có lý, nhưng vụ việc cứ như một quả bóng bôi mỡ, nó cứ
chuội đi từ “sân đội” này sang “sân đội” khác một cách rất khéo léo. Chỉ có
những người đã đọc truyện ngắn “Điệp viên OX 13” của Azit Nêxin thì mới thật
thông cảm được!
Nó biết, hai chục năm nay ông nội nó
không chỉ mất công, mất thời gian mà gần như đồng lương hưu ít ỏi của ông đã bị
hút trọn vào việc này. Nó thấy ông bà nó đã phải nhịn ăn, nhịn mặc, tằn tiện
từng đồng bạc nhỏ mà ngay đến tiền quà bánh cũng chẳng còn được dùng vào đúng
mục đích của nó nữa. Bởi một tờ giấy chứng nhận là ông bà nó là người đã từng ở
địa phương ấy, dù đã đưa đủ các chứng cứ xác minh, thì khi xin một con dấu
chứng nhận cũng mất gần năm lương hưu của ông nó. Xin sao một cái quyết định cũ
của tỉnh cũng lại mất một năm lương hưu nữa. Thế thì làm gì chẳng phải nhịn ăn,
nhịn mặc, ông bà nó làm gì chẳng kiệt quệ! Làm gì chẳng gục ngã!
Bố mẹ nó cũng nghèo phải làm ăn vất vả để
tồn tại, nhưng cái chính là không còn tin vào “giấc mơ huy hoàng” mà ông nội nó
đang theo đuổi, nên chẳng quan tâm mấy tý đến việc đòi đất của ông lão.
Nó yêu ông nên không nỡ nói với ông rằng
trong thâm tâm nó cũng chẳng tin mấy tí vào việc ông nó đang làm. Bản thân nó
đang đi học, còn ăn bám gia đình thì làm sao có thể quyết định việc gì được.
Nó cũng đã biết mảnh đất đó là nhà của cụ
nội nó, ở sát cạnh một nhà máy lớn, nhà máy Xi măng Hải Phòng. Chiến tranh huỷ diệt của đế quốc
Mỹ năm 1972, nhà máy Xi măng lại là mục tiêu chính của cuộc huỷ diệt và như các cụ đã
nói “gần nhà giàu, đau răng ăn cốm”, nhà của cụ nội nó cũng bị phá huỷ theo.
Thời kỳ ác liệt ấy, ông nội nó chỉ kịp về đưa các cụ đi sơ tán. Rồi cuộc chiến
cứ lan rộng mãi ra, nặng nề mãi lên. Khi còn chiến sự không ai dám về đất cũ để
xây dựng lại. Thế là nhà máy Xi măng đã cho xây tường bao, bao quanh cả khu vực dân
cư vào trong đó. Sau khi hết chiến sự, do nhà máy Xi măng gây ô nhiễm nên thành phố
di dời đi một địa phương khác. Chỗ đất của nhà máy cộng với đất đai của khu dân
cư được thành phố quy hoạch lại, nói một cách dân dã hơn, dễ hiểu hơn là đã
được chia chác xong xuôi đâu đấy cả rồi.
Ông nội nó thấy vậy bèn làm đơn đòi lại
đất của bố mẹ mình. Từ lúc gửi lá đơn đầu tiên đến giờ đã hai chục năm rồi,
niềm tin tưởng, sức lực và tiền bạc trong nhà cứ vơi dần đi, cạn kiệt đi. Đến
bây giờ thì không mấy người biết chuyện còn tin là ông nó đòi được đất nữa!
Nhưng như để chiều theo cái nguyện vọng, cái ao ước cuối cùng của một người già
đã gần đất xa trời, nên trong nhà không ai nỡ can ngăn!
Cuối cùng vì thương ông nội nó, bố nó
đành lén mặc cả là sẽ chi cho những người có thẩm quyền giải quyết một số phần
trăm đáng kể, để cố đòi được đất!
Mấy hôm nay thì ông nội nó không ngồi dậy
được nữa, cứ héo hắt dần rồi việc gì đến phải đến. Khi mọi người đều tập trung
đông đủ để tiễn ông lên đường, lúc ông lão đã thở hắt ra và không nói được nữa,
mồm đã méo xệch đi, nhưng vẫn như đang cố dặn lại một điều gì, thì có một tờ
công văn từ thành phố gửi đến. Nó bóc vội ra đọc, nước mắt nó rơi lã chã rơi
trên tờ giấy, nó bỗng hô lên rất lớn với mọi người:
- Cả nhà ơi! Họ đã đồng ý đền bù đất cho ông
nội rồi đây này! Trong này nói thế mà! Đây này, ai không tin thì đọc đi!
Mọi người đổ xô vào phía nó, ai cũng muốn
đọc trước. Tờ giấy được truyền từ người này qua người khác một cách nhanh vùn
vụt đến nỗi có người đã nổi cáu lên vì
mới cầm chưa kịp đọc đã bị giật khỏi tay.
Nó quay lại với ông, thì ông nó đã đi
rồi, trên khoé mắt già nua một dòng nước mắt trong vắt vẫn còn đang rỉ, nhưng
trên môi người chết thì lại nở một nụ cười mãn nguyện.
Nó gào lên một tiếng thật khủng khiếp:
-“Ông ơi!”!
Trong khi đó mọi người hoan hỉ nói cười,
chẳng ai thèm để ý đến tiếng thét xé lòng của nó.
Hà
Nội, 2009.
Liên hệ: DĐ: 0915140055
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)