Hồi học Đại học, bạn bè đã phong cho anh
là đệ nhất gàn: “Nhất Ngát, nhì Huân, tam Bân, tứ Bật”. Tất nhiên chẳng có
chuyện gì là không có lý do, mà xem ra lý do cũng không đến nỗi khó chấp nhận
cho lắm. Này nhé học ngoại ngữ thì anh xé tự điển để buộc mình phải nhớ từ,
thậm chí anh còn nhớ cả số trang có từ đó. Các bảng biểu trong các môn khoa học
cơ sở anh có thể lập lại một cách vô tư như một máy phô-tô cóp-py loại “xịn”.
Thêm vào ưu điểm trên, anh còn có tài nói chuyện rất hay, cứ như bạn bè thường
ví von là “con cua trong lỗ cũng phải bò ra”...
Anh mê và thuộc lòng các chuyện Thuỷ-hử,
Tam-quốc, Tây-du,...Thành ra riêng ở buồng anh, có 12 sinh viên trong một diện
tích 12 mét vuông là đặc biệt được nghe buổi đọc chuyện đêm khuya rất hấp dẫn
suốt năm năm học Đại học.
Tuy nhiên bạn bè cũng nhớ những nhược
điểm của anh, mà chính những đặc điểm này tôn anh lên hàng đệ nhất. Đấy là lúc
anh phải nói chuyện với bạn gái, người ta bảo rằng lúc ấy anh là một màn hình
không có tín hiệu, sự trao đổi trở thành bất tương ứng, anh ứng đối lúng búng
như ngậm hột thị. Niềm tin trong anh cũng rất cực đoan. Một lần các bạn học ở
cùng buồng với Ngát trước khi đi ngủ muốn chọc cho vui, lừa lúc Ngát ra ngoài
mới đố nhau:
- Ai trêu cho thằng Ngát chửi bậy được,
thì ngày mai tao cho cái “bánh đấm” của tao - cái “bánh đấm” là tiêu chuẩn nửa
xuất ăn của sinh viên lúc bấy giờ. Đó là một nắm bột mỳ thả vào chảo nước sôi,
chín vớt ra tròn và cứng như một quả đấm.
Đúng lúc Ngát ở ngoài bước vào, Thiện nói
thản nhiên với các bạn:
- Chúng mày có biết vì sao mặt Quan Công
lại đỏ không? Bố mẹ sinh ra không thế đâu. Ông ta đỏ mặt vì xấu hổ đấy!
- Bố láo! Mọi người nhao nhao.
- Để im tao nói cho mà nghe. Lão ta làm
điều bất chính, rất kín đáo. Sau bị lương tâm dằn vặt, xấu hổ nên mới đỏ mặt.
- Làm gì có chuyện đó! Mọi người vừa phản
đối, lại vừa gợi ý.
- Chúng mày có nhớ ở trận Hạ-Phì không,
vì bị Tào Tháo vây hãm, Quan Công kẹt lại với nhị vị tẩu tẩu là Cam phu nhân và
My phu nhân. Tháo cố ý bày trò ma bùn, chỉ cho ba chị em một gian buồng nhỏ.
Quan Công là người trọng đạo nghĩa nên đã đốt đuốc quỳ trước cửa để canh cho
hai chị dâu ngủ. Nhưng Tháo là một tên xỏ lá, nó cấp cho Quan Công những cây
đuốc ngắn cứ phải thay luôn. Một lần thay đuốc, Tháo để ý thấy Vũ “tắt đèn” hơi
lâu, cỡ nửa tiếng chứ chẳng ít. Hôm sau
Tháo tủm tỉm hỏi Vũ:
- Đêm qua tướng quân thay đuốc để “tắt
đèn” “chi mà lâu dữ dậy”? Thì chỉ thấy Quan Công ấp úng rồi đỏ mặt lên.
Chả là khi ấy Quan Công chưa có vợ, nên
chưa bao giờ được quan sát đàn bà nhất là lúc họ ngủ. Vì thế lần ấy khi cúi
xuống cầm cây đuốc mới để thay thì vô tình nhìn thấy hai thân hình tuyệt mỹ ở
trên giường. Lần đầu tiên trong đời thấy hai “hình thù kỳ quái” mà lại vô cùng
hấp dẫn ấy nên bộ nhớ bị trục trặc và thế là đáng lẽ phải cầm cây đuốc mới để
châm tiếp thì vì mải ngắm mấy cái “dị vật” kia, Quan Công lại vớ ngay chân mình
để châm vào lửa. Tất nhiên lão ta bị bỏng nặng mà lửa thì lại tắt ngấm. Cũng
may sau tìm được “cái bật lửa Gíp-pô” chứ không thì...toi.
Lập tức một trận cười kèm theo tiếng chửi
rất tục của Ngát nổ ra như một luồng gió mạnh làm ầm ỹ đến nỗi trực ban phải
đến gõ cửa, nhắc nhở.
Ai ở trong lớp cũng biết anh sinh viên
quê Bắc Ninh này rất mê Tam Quốc diễn nghĩa, mà các nhân vật trong ấy cứ nói
đến Quan Công là Ngát xuýt xoa thán phục. Ngát cũng thừa biết là các bạn chọc
mình, nhưng bị Thiện châm trúng cái “bọng tức”, nhất là khi mất bình tĩnh anh
ta có cái tật là hay chửi bậy. Ở với
nhau năm năm trong trường ai mà quên được những kỷ niệm như thế.
Rồi khi khóa học kết thúc, Ngát cùng các
bạn tốt nghiệp ra trường. Anh được bộ chủ quản phân về một ban kiến thiết. Đó
là một cơ quan có chức năng quản lý vốn và giám sát một số đơn vị thi công công
trình nào đó. Vì vậy nó rất có quyền hành và cả quyền lợi nữa, ngay cả trong
thời kỳ bao cấp ngày trước.
Chẳng cần thức thời như mấy bạn trẻ bây
giờ, ngay như “me-xừ” Thái, Trưởng ban Kiến thiết, một nhà cách mạng nòi, chính
giữa nhà, ông ta trương một cái ảnh gia đình chụp chung với một vị quan lớn,
rất lớn. Ông ta được quan lớn quàng tay qua vai như một người ruột thịt, mà ông
ta quả là cháu ruột của vị quan lớn kia thật. Bức ảnh to bằng hai phần ba cái
chiếu đôi lồng khung trạm trổ rực rỡ làm cho ai nhìn cũng phải kính nể ngay lập
tức. Trước hết vì bức ảnh to quá cỡ này mà tất cả các hiệu ảnh trong nước không
có hiệu nào phóng nổi, tất nhiên nó phải được “chế tạo tại nước ngoài”. Sau
nữa, vì vị quan lớn kia là một vị mà cả nước chẳng ai là không biết đến, lại
cái cử chỉ rất thân mật của ông ta với chủ nhà làm cho ai trông thấy cũng phải
nể hẳn.
Một người như ông Thái với tấm ảnh to
nhường ấy, đáng làm một tấm gương chói lọi cho cả bàn dân thiên hạ. Thế mà với
cái nhà nhỏ xây bằng gạch xỉ rộng hai chục mét vuông ông ta dựng trên đất công
- tất nhiên là ông ta xin được - ở đầu cầu Hoàng Thạch đã được các đơn vị thi
công mà Ban ông quản lý. Lúc tiện biếu anh vài tạ sắt để anh đổ mái - mình cứ
tằn tiện mãi, khi mưa gió chẳng làm sao tránh được dột ướt. Lúc vét kho mang
anh dăm tấn xi-măng - để anh láng nền cho đỡ ẩm - nhẩm ra đã dùng tới ba tấn
sắt sáu, tấn rưỡi sắt cây, hơn hai chục tấn xi-măng mác cao - để làm cầu cho xe
chạy - mà vẫn chưa hoàn thành căn nhà nhỏ bé kia.
Chả biết cậu kỹ sư dưới quyền nào đó đã
dại dột nói đùa:
- Cái nhà gạch xỉ của ông Thái, có độ bền
tính toán là 4000 năm!
Cậu ta lập tức bị
“lôi ra làm lông”, vì phạm mấy “tội tày đình”:
* Thứ nhất là tội hay soi mói và bất kính
với thượng cấp.
* Thứ nhì là dám đem lịch sử 4000 năm dựng
nước ra để đùa cợt.
Cậu ta bị hành đến
khổ mãi tới khi “me-xừ” Thái bị đi tù vì tội ký khống một khối lượng đất quá
lớn, mà sau đó chẳng may công trình lại bị sập.
Ban kiểm tra của Bộ,
của Chính phủ làm đi, làm lại đến dăm, bảy lần, nhưng vì chứng cứ quá rõ ràng
mà uy tín của cái ảnh lớn quá cỡ kia, cộng với những lá thư tay, những “cú
phôn” đột xuất, rồi sau cùng là một cái ô-tô đen bóng chở một “chuyên viên”
thật to béo, thật đĩnh đạc, đi khắp các Cục, Vụ, Viện để “chỉ đạo và điều tra”
cũng không cứu nổi “me-xừ” ấy. Lúc bấy giờ cậu kỹ sư này mới được trở lại làm
việc.
Người không biết cứ
nghĩ Ngát được làm việc ở một nơi như thế, thì dù là thày bói mù cũng cứ nhắm
mắt mà đoán bừa là mả bố anh phải được táng vào hàm một con vật gì đó có bốn
chân trở lên chứ chả chơi. Trưởng ban mười, thì cấp dưới cũng phải ba bốn “con
nhà tông, chẳng giống lông, cũng giống cánh”, đằng này, để chữa cái mái ngói
dột, Ngát lại đi mua mấy cân xi-măng về trát chít. Mãi sau có người tốt, phân
tích việc ấy để Ngát thấy là mình có ba cái dở:
* Thứ nhất là mất
tiền túi - mà ở đời phải biết quý tiền của mình. Có thoáng, có rộng thì chỉ thoáng, rộng “tiền chùa” thôi
chứ!
* Thứ nhì Ngát làm như thế có khác gì
trát “phân bón” lên mặt thượng cấp. Đã là cấp trên thì đều đúng, đều phải, làm
gì cũng cố mà học tập, mà làm theo cho bằng được.
* Thứ ba lại mang tiếng là dở người! Ở
ống thì dài, ở bình thì tròn, đằng này cứ ngang cành bứa thì ai mà chịu được,
rõ thật vừa thiệt đơn, lại vừa thiệt kép.
Các đơn vị thi công anh theo dõi thì
không ưa anh ra mặt. Nhiều hôm làm việc xong, đến bữa không có cơm ăn, anh đành
ra chợ mua bánh đa ăn trừ bữa. Lại có lần kiểm tra dưới hố móng sâu, anh đã bị
cả xẻng bùn hắt vào cổ, vào lưng lấm hết.
Lúc ấy anh chỉ cười nói:
- Người bị kiểm tra bao giờ cũng có thái
độ không ưa người kiểm tra. Qua thái độ của đơn vị thi công, tôi biết tôi đã
làm việc tốt.
Với anh, sắt bị gỉ không cho buộc, cát đá
bẩn không được trộn bê-tông. Có một lần kiểm tra cốp-pha thấy không đạt yêu cầu
kỹ thuật, anh đã ký biên bản đình chỉ thi công. Việc này làm cho thủ trưởng đơn vị thi công kia dỗ ngọt
không xong đã nổi khùng lên định đánh anh.
Anh đã chẳng sợ thì chớ, lại trừng mắt
lên mắng lại:
- Này tôi nói để anh biết, anh đừng có
doạ tôi, trong từ điển của tôi không có từ “sợ” đâu. Còn nếu muốn đánh, xin cứ
việc, nhưng cũng báo để anh biết, tôi không chịu nổi nửa quả đấm của cái loại
vũ phu như anh đâu. Tôi có thể chết ngay lập tức.
Câu nói bất ngờ rất thực mà lại như đùa
của anh, đã làm cho anh chàng vũ phu kia phải chùn tay và hoảng sợ thực sự, bởi
vì quả thực Ngát rất yếu đuối, cơm tập thể không ăn hết nửa xuất, mùa hè vẫn áo
ấm, động vào anh rất có thể anh lăn đùng ra chết thật chứ chẳng chơi.
Sau này câu chuyện ấy đã thành chuyện cửa
miệng của rất nhiều người. Và thế là lại tồn tại một nghịch lý nữa - Cái con
người trói gà không chặt đó đã làm cho nhiều đơn vị thi công phải kiêng nể theo
đúng nghĩa của từ đó. Họ đã phải thì thào với nhau là nếu ông Ngát theo rõi
công trình nào thì phải làm ăn cho tử tế. Số bác già đứng đắn thì quý anh ra
mặt, thường tấm tắc với nhau:
- Thế mới là đàn ông chứ !
Còn bọn choai choai hăng máu vịt, động
một chút là có thể đánh nhau chí mạng, tự nhiên thấy ngượng, họ bảo nhau:
- Thì cứ xem đấy, ông Ngát có đánh nổi ai
một cái bạt tai bao giờ đâu, sao lại có nhiều người nể sợ đến thế.
Họ hay nhại vui lại anh sau khi đã biến
tấu đi:
- Mày có giỏi, mày đánh tao đi! Từ bé
chưa đứa nào sợ tao cả!
- Cứ đánh thử xem! Tao sẽ nhừ xương với
mày!
Ngát trở thành người vừa thân quen, vừa
lạ lẫm, họ vừa thừa nhận anh lại vừa như chưa dám. Chuyện về anh vừa thật, vừa
bịa, cứ loang rộng mãi ra. Cuối cùng đến tai một cô giáo cấp ba cùng huyện.
Cũng thật ngẫu nhiên, trường cô dạy lại gần cạnh công trường Ngát đang làm
việc.
Và rồi một hôm cô dẫn học trò đi tham
quan công trường, họ đã gặp nhau ở đó. Cô nhìn anh thật ngỡ ngàng với cái thân
hình cao gày, đôi mắt to mầu nâu trung thực và cặp môi hồng như thoa son. Người ta có
cảm giác như Ngát là một cô gái cải trang. Song đặc biệt nhất vẫn là cái dáng
vẻ lúng túng của một học sinh không thuộc bài đứng trước cô giáo nghiêm khắc.
Anh cứ lắp ba lắp bắp trả lời từng câu cô hỏi. Song thật lạ, điều đó lại hấp dẫn cô. Rồi khi đã thân mật,
cô mới hỏi đùa anh:
- Em có nghe người ta nói rằng trong tự
điển của anh không có từ “sợ” cơ mà! Sao gặp em, anh cứ không được tự nhiên.
- Đúng là như thế! Ngát thừa nhận - Nhưng
từ lúc gặp em thì tự điển của anh có lẽ phải bổ xung thêm từ nữa, đó là từ “run
run”.
- Sao lại thế. Cô gái ngỡ ngàng hỏi.
- “Run run” chưa hẳn đã là sợ, anh giải
thích, khi hồi hộp sung sướng quá người ta cũng “run run”, mà khi gặp em, anh
thấy cứ “run run”.
Thế là họ cười rộ lên, từ đó họ thực sự
thông cảm và si mê nhau.
Và thật lạ, một cô giáo cấp ba trẻ đẹp
nhất huyện lại yêu ngay anh chàng “hâm cu-đơ”. Điều đó làm cho nhiều người cảm
thấy không ổn. Người cảm thấy không ổn nhất lại là anh trưởng phòng Giáo dục
huyện, thủ trưởng trực tiếp của cô giáo. Anh cao lớn, đẹp đẽ và điều đáng nói
hơn cả là anh vừa có địa vị, lại vừa là con trai độc nhất của ông Giám đốc sở
Giáo dục tỉnh nhà. Nhớ lúc cô mới về huyện nhận công tác thì tức khắc cô đã lọt
vào “thấu kính đặc biệt” của anh. Cô đã được anh săn đón, chăm sóc tận tình chu
đáo. Đâu đâu trên phòng, dưới ban cũng được anh bắn tin là hai người đã đính
ước cùng nhau, chỉ đợi hai gia đình cho phép, sắp xếp là họ tổ chức cưới. Thế
mà bỗng dưng cô lại dở chứng đi lại với Ngát. Mà nào chỉ có chuyện đi lại,
người ta còn xì xào bao chuyện kinh khủng khác, làm cho anh Trưởng phòng kia cứ
sủi lên sùng sục. Còn với Ngát thì ngược lại, cứ tỉnh bơ như anh chẳng có liên
quan gì tới chuyện đó. Đã có lần cô lo lắng nói lại với anh, thì anh chỉ thản
nhiên trả lời:
- Đừng sợ, kệ thiên hạ đồn đại. Người ta
có thể dấu mọi cái, trừ cái bụng! Thế em có to bụng thật không mà sợ ?
Cô đã phát khóc lên khi nghe anh nói như
vậy.
Rồi đến lúc bà trưởng ban nữ công của cơ
quan không thể kiên nhẫn thêm nữa đã cho gọi anh lên góp ý và yêu cầu anh báo
cáo về chuyện riêng của mình, thì Ngát thủng thẳng nói:
- Tôi là đoàn viên công đoàn và đoàn viên
thanh niên, trong cả hai đoàn thể ấy, điều lệ không thấy nói là phải báo cáo
với tổ chức về chuyện yêu đương, tìm hiểu nhau.
- Ừ, cứ cho là như thế! Nhưng tại sao anh
không tranh thủ sự giúp đỡ của chúng tôi.
- Báo cáo với chị chúng tôi đang trong
thời kỳ hôn hít, sờ mó nhau, chị có kinh nghiệm gì xin chỉ bảo.
- Này đồ ba láp, đồ
gàn dở! Tôi nói để anh biết - chị kia bực tức đứng phắt dậy như “ngồi phải cọc”
- người ta còn báo cáo cho tôi nhiều chuyện đi quá cái anh vừa nói kia!
- Thế đấy! Chuyện gì
vậy, thế họ nhìn thấy hay nghe thấy? Họ là ai?
- Họ là ai không
quan trọng. Nhưng không có lửa, sao có khói! Chị này khẳng định.
- Chị có thấy cái
ống khói nhà máy Xi-măng tuôn khói ra ngào ngạt kia không? Ở đấy làm gì có lửa.
Nói cho đúng, đấy cũng chẳng phải là khói đâu mà là bụi bẩn đấy. Hay là chị nghe lầm?
- Tôi mà lại lầm à? Chị này bực tức.
- Thế chị nhìn thấy à? Sao chị không lập
biên bản?
Ở vào thời kỳ ấy, nếu đôi trai gái nào
dại dột mà làm tình bất hợp pháp thì rầy rà to.
- Không phải tôi, mà là người khác.
- Ai vậy?
- Tôi không phải nói cho anh biết.
- Thế thì thế này. Tôi sẽ làm đơn khiếu
nại lên cấp trên kiện chị về tội vu khống và cố ý bôi nhọ danh dự công dân.
- Không phải tôi!
- Tôi không thấy ai nói về việc này ngoài
chị. Và chị khẳng định là chuyện đó có thật, lại không nói được ai tung tin,
thế thì chả chị thì còn ai vào đây nữa!?
- Không phải tôi mà là cái Thắm nó nói.
- Thế thì chị phải gọi cô Thắm lên gặp
tôi.
Vậy là cái tin kia từ cô Thắm sang cô
Hương, rồi cô Hà, cô Thảo...Cô này bảo là nghe cô kia nói, chẳng ai dám nhận
mình là người biết hoặc người nói đầu tiên cả.
Đến khi việc này được kết luận chỉ là
chuyện suy diễn, đồn đại thì Ngát hạ một câu chủng chẳng.
- Các cô đúng là bầy vịt cái!
Những người dính đến chuyện này nghe cứ
ức lên tận cổ, nhưng chẳng làm gì được mà chỉ lủng bủng:
- Đồ gàn, đồ hấp!
Nhưng vì Ngát “sinh ra dưới một ngôi sao
xấu” như anh ta thường nói, nên chuyện này chưa qua, đã gặp ngay chuyện khác,
mà toàn là chuyện không đâu.
Một hôm đi làm qua phòng trưởng ban, Ngát
thấy có một cái bảng mới sơn rất đẹp, trên kẻ một bài thơ cũng bằng sơn cẩn
thận. Anh đứng lại chăm chú đọc trên cái bảng rất đẹp và trang trọng ấy có một
bài thơ như sau:
“Lưu manh là kẻ rất lười,
Chúng lười lao động, không lười ăn
ngon.
Bà con ta tỉnh táo hơn,
Đề cao, cảnh giác, ta thời tiến
lên!”
Anh xem đi, xem lại
rồi không ngờ hạ một câu thật tục, và cũng thật không may ông trưởng ban lại
đứng ngay sau đó.
Khoảng một tiếng
sau, anh được gọi lên phòng làm việc của trưởng ban.
Anh em thì đoán già, đoán non:
- Kỳ này ông Ngát chắc chắc được đi bổ
túc nghiệp vụ tại Liên-Xô, vì mọi người vừa được trên phổ biến là có hai chỉ
tiêu đi nước ngoài mà bộ vừa thông báo cho ban. Hôm ấy lại đúng kỳ lương, thế
là anh em lấy phăng lương của Ngát mua chè thuốc, kẹo bánh ở căng-tin để liên hoan.
Anh em cử cậu Thiết đi nghe ngóng. Đến khi Thiết về thuật lại, mọi người mới vỡ
lẽ:
-
Ông Ngát nhà mình vừa bước vào phòng, thì em thấy trưởng ban đứng dậy bắt tay -
Thiết vừa kể vừa làm điệu bộ - Em đứng ngoài sướng quá suýt nữa thì nhảy xổ
vào. Em thấy trưởng ban tráng ấm pha chè, lại rút cả thuốc lá ra mời nữa chứ.
Khi hai người ngồi xuống, trưởng ban mới hỏi ông Ngát nhà mình :
- Anh có nhớ lúc nãy đã nói gì ở ngoài
kia không?
- Anh bảo sao cơ ạ? Ông Ngát ngơ ngác.
- Ở ngoài chỗ cái bảng kẻ bài thơ cảnh
giác ấy!
- Không, tôi không nói gì cả.
- Có, anh có nói! Trưởng ban khẳng định.
- Vậy à? Tôi không nhớ xin anh nhắc lại
cho.
- Anh không nhớ thật à? Để tôi nhắc lại
cho anh nghe vậy, anh đã nói: “Thơ với chả thẩn, như cái con đầu b...” Anh nhớ
rồi chứ! Trưởng ban đắc ý dồn.
- Vậy à, có thể tôi đã nói như thế. Ông Ngát
công nhận.
- Thế mà sao anh lại không nhớ?
- Nhớ làm gì một câu
cửa miệng vu vơ. Tôi rất dốt về thơ, nhưng tôi nói thật bài thơ ấy quá dở,
không nên phí một cái bảng, phí sơn, phí công vào đó mà lại chẳng có tác dụng
gì.
- Anh có biết ai làm bài thơ đó không?
- Tôi mong rằng đó không phải là thơ của
anh.
- Đúng, tôi không làm bài thơ đó, nhưng
tham mưu của tôi làm. Anh Dương Trưởng phòng Pháp chế.
- Thế à, nhưng dù ai làm thì đó cũng không
phải là bài thơ có thể đọc được.
Em thấy trưởng ban đứng dậy và bắt đầu
cao giọng - Thiết kể tiếp:
- Các anh chỉ giỏn mồm chê bai, các anh
có biết khi chúng tôi, những người lao động, phải cầm súng chiến đấu ngoài mặt
trận, để cho các anh lê đít trên ghế nhà trường mà học hành. Bây giờ có chút
kiến thức, các anh lại coi thường những người lao động, ít học chúng tôi. Anh
phải xem lại lập trường giai cấp của mình và hãy về làm một bản kiểm điểm trình
lên Ban!
- Có lẽ ... tôi có lỗi vì đã văng tục -
ông Ngát ấp úng nói - nhưng mong anh đừng bắt tôi làm kiểm điểm. Tôi không cố ý
.
- Đây là vấn đề quan điểm lập trường. Tôi
yêu cầu anh phải làm kiểm điểm về ý thức giai cấp .
- Sao anh lại áp đặt thế? Ông Ngát bắt
đầu nóng tai.
- Anh bảo ai áp đặt!
Trưỏng ban quát lên. Anh hãy về làm kiểm điểm ngay!
Ai ngờ ông Ngát cũng
đứng lên trước mặt trưởng ban nói dằn giọng:
- Này thế lập trường của các anh là coi trọng kẻ vô học và căm ghét người
có học sao? Ta ca ngợi cụ Nguyễn Du vì cụ làm truyện Kiều hay chứ đâu phải vì
cụ là thày đồ hoặc vì là người xứ Nghệ. Nếu cho rằng người lao động tất nhiên
là dở và chẳng có thể làm cái gì hay được, thì đấy mới chính là coi thường
người lao động. Anh ạ, các cụ có dạy “Hay thì khen, hèn phải chê” có thế mới
tốt dần lên được. Nếu bất kỳ cái gì của các anh tạo ra, ai cũng cứ phải tấm tắc
khen nịnh thì thật là đáng buồn. Tôi không coi thường người lao động, nhưng tôi
không thể khen cái gì xấu, cái gì dở, dù là của người lao động làm ra. Tôi lại càng coi thường cái gì dở, cái gì
dốt mà cứ làm ra bộ hay ho. Ai lại đi “tự hào về sự nghèo khổ và dốt nát” bao
giờ. Tôi nghĩ người phải kiểm điểm lại lập trường giai cấp chính là anh chứ
không phải tôi.
- Tôi, tôi phải kiểm điểm? Trưởng ban ngơ
ngác.
- Vâng, chính anh, mà về ngay cái lập
trường giai cấp mà anh vừa nói ấy. Lại nữa tôi xin nói thêm, anh đừng kể công
là đã đi đánh nhau để dành độc lập, tự do cho mọi người và để cho chúng tôi
được học hành. Người ta có thể tìm thấy độc lập, tự do ở một hoang đảo giữa
những con thú rừng. Anh đi chiến đấu, tôi đi học đều có thể đóng góp phần của
mình cho đất nước. Để đánh giá chúng ta một cách khách quan hơn thì nên dành
cho đời sau họ làm. Chưa chắc anh đã có công hơn tôi đâu, ông Trưởng Ban ạ. Nói
xong ông Ngát vỗ vào vai Trưởng Ban một cái rồi bước ra.
Còn lại một mình giữa phòng, Trưởng Ban
phủi tay kết luận:
- Thằng gàn này có nói cũng phí lời!
Việc này qua đi chưa hết dư âm, thì nửa
tháng sau, Ngát lại vấp với ông Dương tác giả bài thơ cảnh giác. Sự việc thực
ra chẳng có gì đáng nói cả, song ở đời đã “không ưa thì dưa có giòi”.
Chả là cơ quan có chở mấy ngàn gạch về để
xây bếp tập thể, không may gặp phải tháng mưa dầm, đường lại xấu nên tay lái xe
đổ ào gạch xuống đầu dốc. Cái dốc này là ngõ chung của bốn, năm cơ quan liên
ngành, liên bộ và có đến hàng trăm hộ tập thể. Hơn tháng sau trời mới ngớt mưa
và thợ xây mới khởi công được. Khi gom gạch lại thì chỉ còn già nửa. Thế là
không đủ gạch để xây, việc phải báo cáo với lãnh đạo. Chỉ huy cho họp tham mưu
để kiểm điểm và sau khi bàn bạc, ông Dương được chỉ định thành lập một tổ gồm
Đảng, Chính, Công, Thanh, thêm cả Công an khu vực và Tổ dân phòng đi từng nhà
kiểm tra, lập biên bản thu hồi gạch.
Những người trót lấy ít
gạch thì lo lắng ra mặt. Tay Thứ đã phải “phân trần quyền”, đón rước niềm nở mà
vẫn bị lập biên bản vì đã có lấy hai chục viên gạch sửa bể nước. Tay Bình láu
cá hơn đã giấu gạch lấy trộm lên liếp trần nhà rồi đóng cửa giả vờ cả nhà đi
chơi mới thoát. Tổ kiểm tra đi được vài nhà thì đến chỗ Ngát, đúng lúc Ngát
đang xoay trần sửa xe cho cô giáo, tay chân còn lọ lem dầu mỡ. Khanh là bạn
thân của Ngát trong đoàn kiểm tra nửa đùa, nửa thật gọi cửa:
- Ê, Ngát mở cửa để đoàn vào kiểm tra.
- Kiểm tra gì thế
mày?
- Kiểm tra xem có
lấy gạch không.
- Gạch nào? Mà tao lấy làm gì!
- Thôi cứ mở cửa ra để xem đã.
Ngát mở cửa và thấy cả một đoàn người
đứng ngay trước cửa. Bấy giờ ông Dương mới trịnh trọng lên tiếng:
- Tôi thừa lệnh của Lãnh đạo Ban, lập tổ
kiểm tra, đi kiểm tra xem ai lấy gạch công làm việc riêng không? Anh cho chúng tôi vào kiểm tra trong nhà.
- Này có phải cái đống gạch đổ ở đầu dốc
hàng tháng nay, không ai cai quản, bị mất bây giờ các anh đi kiểm tra chứ gì?
- Đúng thế. Ông Dương xác nhận ngay.
- Lệnh khám nhà của
anh đâu?
- Cần gì lệnh khám
nhà! Đây là nhà tập thể, còn các anh là cán bộ, công nhân viên của nhà nước.
- Anh là Trưởng
phòng Pháp chế mà anh nói chẳng có tý luật pháp nào. Cán bộ, công nhân viên
không phải là công dân sao? Tôi xin hỏi anh đưa về mấy nghìn gạch, sáu ngàn
viên à, bây giờ còn bao nhiêu? Hơn
ba ngàn thôi sao. Khi đổ xuống đầu dốc ai nhận gạch? Không ai à, vậy thì anh ra
đầu dốc mà hỏi mấy cái cọc chứ sao lại vào đây! Vận chuyển hơn nửa vạn gạch từ
Giếng Đáy đường xa trăm cây số, về đổ ào xuống đầu dốc không ai nhận thì sao
biết xe chở về đó mấy ngàn viên. Đã mấy tháng nay mới đi thu nhặt. Anh có biết ở đây có đến bốn năm cơ
quan, gồm hơn trăm hộ tập thể, mỗi người chỉ cần nhặt vài viên kê hòm, kê chạn,
thì đã là bao nhiêu gạch rồi không? Các anh ngần này con người mà không có một
người nào đủ trí khôn để ngăn một việc làm vừa ngớ ngẩn, vừa phạm pháp như thế
hay sao? Vì vô trách nhiệm để mất ít gạch mà các anh coi chúng tôi đều là quân
ăn cắp à? Có séo ngay đi không hả đồ đểu!
Mấy vị đứng sau tháo lui ngay, họ thì
thầm với nhau là thôi đừng có đụng vào “gã gàn dở” này thêm rách việc, vả lại
hắn ở một mình, ăn tập thể thì lấy gạch làm gì. Song ông Dương thì bực lắm, hôm
nọ là bài thơ cảnh giác của ông, Ngát đã làm cho không dám treo lên nữa. Hôm
nay lại cái việc gạch ngói này.
Ông thấy bẽ mặt với mọi người và thấy cần
phải nâng cao quan điểm:
- Anh dám chống lại lệnh của lãnh đạo,
chống lại luật pháp phỏng? Anh định phá hoại sản xuất à?
- Này anh hãy về ngủ một giấc cho khoẻ,
rồi ta hãy nói chuyện một cách tỉnh táo. Tôi chả dại gì chống lại luật pháp,
tôi cũng không chống lại anh đâu, mặc dù tôi coi anh chẳng ra gì. Song anh cũng
phải biết rằng anh đâu phải là luật pháp. Còn lãnh đạo ra lệnh cái gì đúng, cái
gì phải ta ủng hộ, cái gì dở, cái gì sai ta phải can ngăn, thế mới là tham mưu,
chứ cái gì cũng gật thì chỉ là “tham ăn” thôi, anh có hiểu không?
Đoàn kiểm tra bỏ nhà Ngát sang đến nhà Dư
thì bị phản ứng dữ dội hơn, không chỉ bằng lời nói, mà bằng cả một thùng nước
gạo hắt ra kèm thêm “một hồi chửi rất dân dã”.
Họ kéo nhau ra bể nước công cộng thì giải
tán, vì chẳng ai đủ gan đi tiếp nữa và vì quần áo họ bị nước gạo chua vấy bẩn
hôi hám quá rồi.
Sau đó khoảng trên dưới một năm Ngát và
Băng tổ chức lễ thành hôn. Đám cưới thật đông vui. Hầu hết những người tới dự
là do quý mến Ngát, số còn lại do tò mò. Quang cảnh diễn ra thật vui vẻ, thậm
chí không đủ chỗ cho mọi người ngồi, trẻ em bám quanh các cửa sổ. Nhưng gần tàn
hôn lễ mọi người đã phải thót tim chứng kiến cảnh anh Trưởng phòng giáo dục
huyện gây gổ với Ngát.
Anh to cao, đẹp đẽ, diện rất sang, đứng
ngang tàng trước một khung cửa, hất hàm hỏi Ngát:
- Này anh có biết
tôi và Băng yêu nhau không?
- Thế à? Tôi tưởng
chỉ có mình anh mê cô ấy.
- Chúng tôi yêu nhau
và đã từng là của nhau.
- Thế cơ đấy!
- Và anh nên biết
điều ấy xảy ra không phải chỉ có một lần.
- Thế rồi sao?
- Anh có phải là một
thằng đàn ông không hả, đồ hấp?
- Sao lại không? Anh không tin à, vào
buồng tôi cho xem.
- Mày là một thằng ngu, một thằng hèn!
Nghe như vậy mà mày không có ý kiến gì sao? Anh ta cáu quá trước
sự tỉnh bơ của Ngát.
- Anh là trưởng phòng
giáo dục, mà ăn nói rất vô giáo dục. Tôi lại cứ tưởng vì hậm hực anh tới đây
chỉ có mỗi mục đích là uống rượu để nuốt giận. Còn bây giờ anh muốn nghe ý kiến
của tôi thì hãy nghe cho rõ đây này:
* Thứ nhất, tôi
không cho phép ai lăng nhục tôi, nhưng vì hôm nay là ngày vui nên tôi bỏ qua
cho anh.
* Thứ hai Băng là
một cô gái đã trưởng thành, lại có trình độ. Trước lúc gặp tôi, tất nhiên cô ấy
đã gặp và quen nhiều người đàn ông khác. Yêu nhau đâu phải là cái tội. Có thể cô ấy đã yêu hàng chục người, trong đó
cũng có thể có anh. Khi yêu nhau người ta thể hiện tình cảm bằng nhiều cách, kể
cả ngủ với nhau. Nhưng sau khi đã chọn lựa rồi, đi tới hôn nhân thì người ta sẽ
biết cách giữ cho nhau, thuộc về nhau, anh có hiểu không? Ý kiến sau cùng của
tôi là kẻ nào dám xúc phạm vợ tôi, tôi sẽ không tha.
- Không tha thì mày làm được gì hả? Cái
thứ trói gà không chặt mà cũng bốc phét. Anh kia vênh vênh đi quanh Ngát một
vòng.
- Anh quả thực chỉ có cái mẽ bề ngoài. Vũ
dũng như Lã Bố một mình địch được với ba anh hùng cái thế là Lưu, Quan, Trương
mà bị một tiểu thư liễu yếu đào tơ là Điêu Thuyền trói lại. Cái loại người như
anh mà cũng cho là mình mạnh lắm sao?
- Mày là một thằng chó chết! Rồi anh ta
giơ tay định tát vào mặt Ngát.
Đến đấy người ta
thấy Ngát hắt toẹt cả cốc rượu đang cầm trên tay vào mặt anh Trưởng phòng nọ.
Khi anh ta mở được mắt ra và định xông vào Ngát thì cậu Lẫm thợ lặn, to lớn như
hộ pháp, còn rất trẻ nhưng lại để bộ râu đen rậm như Trương Phi đứng chen vào
giữa hai người, ưỡn bộ ngực lực sĩ vào mặt anh Trưởng phòng Giáo dục, rút khăn
mùi-soa chấm chấm những giọt rượu trên mặt anh ta, rồi chậm chạp gấp chiếc khăn
cất vào túi áo ngực. Lẫm một tay quàng qua cổ, một tay đưa cốc rượu đầy vào
miệng anh chàng nọ. Anh ta cố dẫy dụa, nhưng không làm sao thoát ra được. Khi
“cốc rượu bất đắc dĩ” đã cạn và khi Lẫm buông cánh tay nặng nề ra khỏi cổ anh
kia, cầm cái cốc không lên ngắm nghía như xem một vật lạ, thì anh ta lùi lũi
bước ra khỏi phòng giữa tiếng cười rộ lên của mọi người.
Tất nhiên sau đó cô
giáo mất việc “trở thành mất dạy” như Ngát thường nói vui. Đôi vợ chồng trẻ
phải đùm bọc nhau với bao khó khăn, không nhà cửa, không hộ khẩu, không tem
phiếu. Mỗi khi kẻng tan tầm, họ kê hai
cái bàn làm việc lại, che ri-đô làm buồng hạnh phúc, và sáng tinh mơ hôm sau phải
trở dậy thật sớm để kê lại bàn ghế. Và đến lúc bụng vợ to bằng cái trống cái,
Ngát đành đưa vợ rời phòng làm việc đến trú tạm ở Tam quan một ngôi chùa gần
đó, mà sư cụ trụ trì dù rất thương cũng không thể để họ vào Nội điện được. Cái
mái Tam quan chỉ vỏn vẹn có gần ba mét vuông ấy phải dùng liếp che trước, chắn
sau mà vẫn trống tuềnh, trống toàng, dột hắt tứ tung, có lẽ đã được bàn tay của
Đức Từ bi che chở nên nó vẫn thành mái ấm của một gia đình hạnh phúc, vẫn
thường vang lên tiếng cười và tiếng trẻ bi bô tập nói.
Khoảng hơn năm sau
đó cơ quan Ngát có cất dăm gian nhà tranh nhỏ để cấp cho cán bộ, công nhân viên
chưa có chỗ ở. Ngát cũng có tên trong danh sách được xét, nhưng vì chỉ có mình
anh làm việc ở Ban, lại vì chẳng chịu thăm nom Trưởng Ban luôn, nên anh chỉ
được xếp vào loại xét vớt. Cuối cùng chỉ còn một gian nhà mà có đến ba người
sót lại. Lúc công đoàn đưa ra cọ xát, thì Ngát tự nguyện rút. Theo anh, cô Ngân
cấp dưỡng có con ngoài giá thú đang ở trong một ngách bếp tập thể rất mất vệ
sinh, còn anh Minh công nhân khảo sát mang bố ốm từ quê lên chăm nuôi phải
nhường bố nằm giường, anh nằm đất đều là những trường hợp cần xếp trước.
Thế là hơn mười năm
công tác lần đầu anh được xét phân nhà thì lại nhường cho người khác.
Được tin ấy Băng đã
khóc mà nói với anh rằng:
- Nhiều người bảo
anh là gàn, là hấp, nhưng với em, anh là một người đàn ông tuyệt diệu nhất.
Ngát đã ôm lấy vợ vỗ
về mà nói với cô rằng:
- Tưởng chỉ có mình
anh gàn, nào ngờ em cũng dở.
- Có thế mới xứng
đôi chứ, chàng gàn của em ạ.
Hà Nội, 1995.
Liên hệ: DĐ: 0915140055
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét